Ngoài chế độ ăn uống phải kiêng khem các chất làm tăng lượng đường trong cơ thể thì việc dùng thuốc để điều trị các bệnh khác ở bệnh nhân đái tháo đường cũng cần phải lưu ý, tránh những tương tác thuốc dẫn đến làm giảm tác dụng của thuốc điều trị chính hoặc tăng độc tính của thuốc, hoặc gây ra những biến cố nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe bệnh nhân.
Thuốc chống viêm corticoid
Corticoid là nhóm thuốc kháng viêm, chống dị ứng và ức chế miễn dịch. Khi mới ra đời, thuốc được coi như là một “thần dược” điều trị “bách bệnh”. Ngày nay, nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong các bệnh: chống viêm ở giai đoạn sớm, giai đoạn muộn bất kể nguyên nhân gì như cơ học, hóa học, nhiễm khuẩn...; bệnh dị ứng, bệnh ngoài da, hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính; bệnh khớp, bệnh miễn dịch. Tuy được ứng dụng để điều trị rộng rãi, nhưng corticoid lại có rất nhiều tác dụng có hại cho bệnh nhân, trong đó có tính chất gây tăng đường huyết gián tiếp, làm giảm dung nạp glucid, có nguy cơ nhiễm ceton với các biểu hiện như nôn ói, đau bụng... nặng hơn thì bị co giật, xuất hiện triệu chứng thần kinh, làm giảm tác dụng của các thuốc chống đái tháo đường... Do vậy, đối với bệnh nhân đái tháo đường, phải thật hạn chế chỉ định sử dụng nhóm thuốc này. Nếu buộc phải dùng thì cần có sự theo dõi chặt chẽ của các bác sĩ chuyên khoa, điều chỉnh liều dùng của các loại thuốc điều trị bệnh đái tháo đường cho phù hợp.
Các thuốc kháng viêm, giảm đau NSAIDs
Các loại thuốc điều trị đau nhức thông dụng như ibuprofen, diclofenac, naproxen... làm giảm đau do ức chế tổng hợp prostaglandin, chất tham gia cơ chế điều hòa đường huyết, do đó làm tăng nguy cơ hạ đường trong máu. Ngoài ra, các NSAIDs liên kết mạnh với các protein huyết tương nên có nguy cơ đẩy các thuốc điều trị đái tháo đường nhóm sulfamid như: glicazide, glibenclamide, chlopropamide ra khỏi liên kết với protein huyết tương dẫn đến nguy cơ hạ đường huyết.
Tư vấn dùng thuốc cho người bệnh. Ảnh: TM
Thuốc trị gout allopurinol và các dẫn chất
Allopurinol là một thuốc được sử dụng trong phác đồ điều trị gout cấp và mạn tính. Thuốc có tác dụng làm giảm việc sản xuất axit uric trong cơ thể. Axit uric tích tụ có thể dẫn đến bệnh gout hoặc sỏi thận, do vậy, ngoài dùng điều trị gout, thuốc còn được dùng trong điều trị bệnh sỏi thận. Thuốc cũng được sử dụng để làm giảm nồng độ axit uric trong những bệnh nhân đang điều trị ung thư...
Tuy nhiên, allopurinol có thể ức chế cloropamide tiết qua ống thận dẫn đến nguy cơ hạ đường máu nghiêm trọng. Do vậy, đối với bệnh nhân đái tháo đường không nên sử dụng thuốc này.
Thuốc trị lao rifampicin
Rifampicin là dẫn chất kháng sinh bán tổng hợp của rifampicin B, có hoạt tính với các vi khuẩn thuộc chủng Mycobacterium, đặc biệt là vi khuẩn lao, phong... Rifampicin là một kháng sinh phổ rộng được chỉ định trong điều trị tất cả các thể lao bao gồm cả lao màng não và điều trị bệnh phong, phòng viêm màng não do Haemophilus influenzae và Neisseria meningitidis cho những người tiếp xúc trực tiếp với người bệnh chắc chắn hoặc nghi mắc các vi khuẩn đó. Ðiều trị nhiễm khuẩn nặng do các chủng Staphylococcus kể cả các chủng đã kháng methicilin và đa kháng (phối hợp với các thuốc chống tụ cầu).
Một trong tác dụng phụ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đối với bệnh nhân đái tháo đường, đó là làm giảm nồng độ của tolbutamid trong huyết tương do cảm ứng enzym trên cytochrom P450, đây là kiểu tương tác dược động về chuyển hóa thuốc.
Thuốc lợi tiểu
Các thuốc lợi tiểu thiazid làm giảm tính nhạy cảm của mô với insulin, làm giảm tiết insulin gây tăng glucose máu. Các loại thuốc lợi tiểu giữ kali như furosemid... làm tăng nguy cơ nhiễm axit lactic với biểu hiện buồn nôn, co cứng cơ, thở sâu và nhanh, cảm giác mệt nhọc, đau bụng.
Thuốc kháng nấm họ imidazol
Khi bệnh nhân đái tháo đường điều trị các bệnh nấm da, nấm tóc, nấm âm đạo... thì lưu ý các thuốc họ imidazole như: miconazol, ketoconazol, itraconazol... do các thuốc này ức chế cytochrom P450 làm tăng tác dụng hạ đường huyết, có thể gây ra biến chứng.
Thuốc chẹn beta
Các thuốc chẹn beta, kể cả thuốc nhỏ mắt (như timodol, betoptic), dùng trong điều trị glaucoma, có thể che lấp các triệu chứng hạ glucose máu, điều này có thể dẫn đến hôn mê do hạ gluco máu, biểu hiện trên lâm sàng:nhịp tim nhanh, toát mồ hôi, run, hồi hộp, lo âu.
Thuốc cường thần kinh giao cảm beta
Lưu ý các loại thuốc điều trị cảm cúm thông thường có chứa hoạt chất ephedrin, là chất cường giao cảm làm giảm tác dụng của thuốc điều trị đái tháo đường do tính chất gây tăng glucose máu.
Thuốc trị loét dạ dày cimetidin
Ðược chỉ định điều trị ngắn hạn trong các bệnh loét tá tràng tiến triển lành tính; điều trị duy trì loét tá tràng với liều thấp sau khi ổ loét đã lành; điều trị chứng trào ngược dạ dày - thực quản gây loét. Thuốc cũng được chỉ định trong điều trị các trạng thái bệnh lý tăng tiết dịch vị như hội chứng Zollinger - Ellison, bệnh đa u tuyến nội tiết hoặc điều trị chảy máu tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng, dự phòng chảy máu đường tiêu hóa trên ở người có bệnh nặng.
Tuy nhiên, cimetidin làm giảm độ thanh lọc của thuốc metformin (thuốc dùng trong điều trị bệnh đái tháo đường) ở thận do ức chế bài tiết qua thận, làm nồng độ huyết thanh của metformin có thể tăng, làm tăng tác dụng dược lý của metformin và có thể gây hạ đường huyết.
Hormon tuyến giáp
Levothyroxin được chỉ định điều trị thay thế hoặc bổ sung cho các hội chứng suy giáp, nhưng thuốc có thể làm cho thuốc điều trị đái tháo đường bị mất cân bằng do làm tăng nhu cầu về insulin.