Những chứng bệnh rất phổ biến của thời đại hôm nay như các chứng bệnh của đường ruột, viêm màng nhầy tử cung, mệt mỏi kinh niên, chứng u xơ, đau cơ... hiện là dấu hiệu của một “gia đình bất hòa”. Tại các nước phương Tây, bệnh tự miễn chiếm tuần suất 1/5 và cũng thật là bất công, phụ nữ lại là nạn nhân chính.
Sự tự miễn (autoimmunity) xảy ra khi hệ miễn dịch của cơ thể lại tấn công vào các mô của chính cơ thể đó. Cần nên biết rằng sự tự miễn hoàn toàn khác xa với sự dị ứng (allergy). Trong sự dị ứng, hệ miễn dịch của cơ thể tấn công vào những phần tử lạ xâm nhập vào cơ thể tỉ như phấn hoa, bụi bặm...
Sự tự miễn sẽ dẫn đến hậu quả là sự hủy diệt các mô, tế bào của chính cơ thể mà hệ miễn dịch đã tấn công vào và sẽ gây nên những chứng bệnh vô cùng nghiêm trọng. Sự tự miễn có thể tác động vào nhiều mô cùng một lúc như bệnh lupus hoặc chỉ tác động vào từng cơ quan riêng lẻ chẳng hạn như các bệnh của tuyến giáp. Bênh tự miễn có thể gây ra trên 80 tình trạng bệnh (conditions) khác nhau.
Bệnh tự miễn hiện là mộ chủ đề y học đươc nghiên cứu mạnh mẽ nhất hiện nay. Số người bị bệnh tự miễn ngày một gia tăng, nhất là chứng đa xơ cứng (multiple sclerosis). Chỉ trong vòng một thập kỷ, số bệnh nhân đa xơ cứng đã tăng gấp đôi.
Các nhà y học đã mạnh mẽ “tố cáo rằng chính môi trường sống hiện đại là thủ phạm “đâm bị thóc, thọc bị gạo”. Ngoài ra cũng cần phải kể đến các yếu tố di truyền. Bạn sẽ rất có khả năng bị “dính” bệnh tự miễn nếu như người thân của bạn đã từng “dính”. Tuy nhiên, không nhất thiết là có chung tình trạng bệnh, ví dụ như nếu người thân của bạn bị các bệnh về tuyến giáp thi bạn không nhất thiết bị các bệnh về tuyến giáp, thay vào đó, bạn sẽ bị lupus...
Y học hiện đại đã “chỉ mặt điểm tên” 5 thủ phạm đã nhúng tay vào quá trình tự miễn.
Bệnh tự miễn có thể gây ra trên 80 tình trạng bệnh khác nhau
1. Sự thiếu hụt vitamin D: vitamin D là một “biên tập viên” của hệ miễn dịch. Vitamin D sẽ hỗ trợ hệ miễn dịch chống lại ung thư. Ngăn ngừa sự nhóm họp của những “thành phần phản động” trong hệ miễn dịch. Vitamin D được cơ thể tổng hợp nhờ vào ánh sáng mặt trời. Những quốc gia ở vĩ độ cao như Canada và New Zealand có tần suất người mắc bệnh tự miễn cao nhất thế giới. Để chắc ăn rằng bạn không bị thiếu vitamin D, lượng vitamin D có trong máu khi đem xét nghiệm cần phải đạt ở con số 100 - 150 pg/ml.
2. Sự nhiễm trùng: sẽ làm ngòi nổ cho một số bệnh tự miễn chẳng hạn như: sốt thấp khớp, viêm cột sống... trong sự viêm nhiễm, các tế bào của chính cơ thể lại “na ná” như vi trùng. Vì vậy, hệ miễn dịch lại “khôn nhà, dạ chợ”. Thay vì đánh vi trùng, lại đi tiêu diệt “người nhà”.
3. Sự xáo trộn vi khuẩn đường ruột: có hàng tỉ tỉ vi khuẩn sống ở trong ruột có vai trò điều hòa hệ miễn dịch. Trong vài thập kỷ gần đây, màng nhầy ruột của chúng ta đang “la làng” vì sự sử dụng kháng sinh bừa bãi, sự sử dụng thuốc ngừa thai vô tội vạ. Phong trào làm ốm cũng là kẻ tòng phạm. Sự mất cân bằng của hệ vi sinh đường ruột cũng sẽ dẫn đến các chứng tự miễn và các rối lọan miễn dịch.
4. Hội chứng rò ruột: một khi hệ vi khuẩn đường ruột bị xáo trộn, sự tiêu hóa trở nên kém hiệu quả, màng nhầy ruột sẽ bị tổn hại. Hàng rào phân cách ruột và máu bị hóa giải. Các phần tử thức ăn sẽ thừa cơ hội từ ruột ngao du vào máu và tạo “gánh nặng” cho hệ miễn dịch từ đó hệ miễn dịch “nổi cáu” dẫn đến sự tự miễn.
5. Ô nhiễm môi trường: bệnh tự miễn, nhất là bệnh lupus, càng trở nên nghiêm trọng hơn khi môi trường sống bị ô nhiễm. Những “tội phạm môi trường” nổi danh nhất là thủy ngân, thuốc trừ sâu, thuốc nhuộm tóc, bao ni lông... Những hóa chất này gây tổn hại một cách trực tiếp lên hệ miễn dịch. Bệnh tự miễn bị gây ra trong trường hợp này là do các mô của cơ thể bị tổn hại và bị biến đổi đến nỗi hệ miễn dịch “nhìn không ra. Nơi đáng thương nhất chính là tuyến giáp, vì chúng phải hứng chịu độc chất môi trường nhiều nhất, từ đó gây nên những rối loạn về tuyến giáp. Hiện có “lai rai” khoảng 30.000 hóa chất độc hại đang được sử dụng và chưa bao giờ được thử nghiệm xem tác hại của chúng như thế nào nếu đem sử dụng lâu dài.
Vì sao bệnh tự miễn cũng “phân biệt giới tính”? Có đến 79% số bệnh nhân tự miễn là nữ giới. Một trong những nguyên nhân là do hệ miễn dịch của phụ nữ sẽ bị thay đổi trong thời gian mang thai. Trong thai kỳ, những tế bào phôi thai có thể di cư vào cơ thể mẹ và “bám trụ” ở đó hàng thập kỷ. Những tế bào di cư này giúp cơ thể người mẹ kháng lại một số bệnh tật, tuy nhiên, chúng cũng trở nên “nghịch tử”, làm cho cơ thể người mẹ trở nên mắc chứng tự miễn. Bên cạnh đó, phụ nữ cũng dễ bị rủi ro từ một hoóc-môn giới tính oestrogen. Oestrogen “kích động” sự tự miễn. Những loại thuốc oestrogen tổng hợp như thuốc tránh thay, liệu pháp thay thế hoóc-môn càng làm gia tăng khả năng tự miễn.