Trên 50% trẻ em không được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời
Theo nhóm chuyên gia Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là giải pháp quan trọng nhất trong phòng ngừa bệnh tật và tử vong phụ nữ và trẻ em.
Ước tính hàng năm NCBSM giúp phòng ngừa được trên 22.000 tử vong do ung thư vú và 800.000 trường hợp tử vong dưới 5 tuổi nếu phụ nữ ở các nước tăng cường cho con bú mẹ đến 24 tháng.
Đối với phụ nữ, cho con bú giúp giảm nguy cơ tử vong ung thư vú, ung thư buồng trứng, đái tháo đường, bệnh mạch vành loãng xương, bệnh lý chuyển hóa, viêm khớp dạng thấp và bệnh Alzheimer.

Sữa mẹ là tốt nhất cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Đối với trẻ em, bú mẹ giúp giảm các bệnh lý nhiễm trùng như viêm phổi, tiêu chảy, giảm nguy cơ đái tháo đường, giảm tỉ lệ thừa cân béo phì, phòng ngừa dậy thì sớm so với trẻ bú sữa công thức. Đặc biệt trẻ được bú sữa mẹ tăng chỉ số thông minh và khi trưởng thành có thu nhập, hiệu quả xã hội cao hơn.
Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là hơn 50% các bà mẹ không thể duy trì việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu và trên 80% bà mẹ đã không thể cho con bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi tại Việt Nam. Điều này cho thấy có nhiều nguyên nhân đang cản trở hành trình thiêng liêng NCBSM này, đòi hỏi sự nhìn nhận và giải quyết từ nhiều phía.
Một trong những rào cản lớn đến từ việc chăm sóc trước và trong khi sinh. Nhiều phòng khám sản khoa trước sinh chưa thực sự chú trọng tư vấn đầy đủ về lợi ích và kỹ thuật nuôi con bằng sữa mẹ, thậm chí chính nhân viên y tế cũng chưa nhận thức hết tầm quan trọng của nó.
Tại nhiều phòng sinh, không có người thân đồng hành, thiếu sự hỗ trợ và động viên của nhân viên y tế làm bà mẹ căng thẳng, đau đớn, tăng tiết các hormone bất lợi có thể ức chế quá trình tiết sữa mẹ. Phòng sinh thiếu thân thiện cùng với hạn chế vận động trong chuyển dạ làm tăng tỉ lệ mổ đẻ không cần thiết và giảm cơ hội tiếp cận sữa mẹ.
Ngay sau sinh, nhiều trẻ không được thực hiện da kề da đầy đủ trong ít nhất 90 phút, không được tạo điều kiện bú mẹ cữ đầu tiên trên ngực mẹ, đặc biệt đối với trẻ mổ đẻ. Việc cách ly mẹ con không cần thiết, thiếu chăm sóc da kề da, cùng với việc lạm dụng sữa công thức trong những ngày đầu đã làm giảm khả năng nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ.
Theo thống kê, ở Việt Nam chỉ có 24% trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn và chỉ 22% trẻ được bú sữa mẹ cho đến hai tuổi. Những tỷ lệ này còn có thể thấp hơn nữa đối với công nhân làm việc tại nhà máy. Bởi hầu hết các nữ công nhân thường cai sữa sớm cho trẻ, thay sữa mẹ bằng sữa công thức vì lo lắng và không chắc chắn về khả năng cho con bú bằng sữa mẹ khi họ trở lại làm việc sau khi nghỉ thai sản. Nghiên cứu của Alive và Thrive chỉ ra rằng việc trở lại làm việc là một yếu tố chính ngăn cản phụ nữ trong việc nuôi con bằng sữa mẹ.
"Các nữ công nhân cũng làm mẹ và cần được hỗ trợ tại nơi làm việc để nuôi con bằng sữa mẹ. Bằng cách tạo điều kiện thúc đẩy nuôi con bằng sữa mẹ tại nơi làm việc, các nhà máy có thể góp phần tăng tỷ lệ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng và tiếp tục nuôi con bằng sữa mẹ khi nữ công nhân quay trở lại làm việc sau khi nghỉ thai sản", bà Lesley Miller, Phó Đại diện UNICEF Việt Nam cho biết.
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ
Theo nhóm chuyên gia, trong 6 tháng đầu tiên, nhiều bà mẹ lo lắng về việc đi làm lại sau 6 tháng nghỉ thai sản, không có đủ thời gian vắt sữa và cho con bú trực tiếp. Vì vậy, họ có xu hướng tập cho con bú sữa công thức từ 1-2 tháng trước khi trở lại công sở, làm gián đoạn quá trình bú mẹ tự nhiên. Đáng tiếc hơn, từ 6 đến 24 tháng, không ít bà mẹ lại lầm tưởng rằng sữa mẹ đã hết chất dinh dưỡng, dẫn đến việc lựa chọn sữa công thức thay thế, bỏ lỡ giai đoạn vàng để tiếp tục cung cấp kháng thể và dinh dưỡng quan trọng cho con.

Ngành y tế Việt Nam trong những năm qua đã thực hiện nhiều chiến lược quan trọng để đẩy mạnh việc nuôi con bằng sữa mẹ.
Cuối cùng, tác động của các công ty sữa công thức đóng vai trò không nhỏ. Việc quảng cáo sữa công thức từ trước sinh, với những lời lẽ hấp dẫn về "sữa bà bầu" hay "lợi ích vượt trội", đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý và quyết định của các bà mẹ. Ngay cả trong các phòng mạch tư nhân, dù không cố ý, nhưng việc tư vấn chưa chuẩn xác có thể vô tình làm bà mẹ chọn lựa cả sữa công thức đồng hành cùng sữa mẹ. Đáng lo ngại hơn, sự tài trợ của các hãng sữa công thức cho các chuyên gia y tế có thể giúp thương hiệu sữa công thức len lõi vào các cơ sở y tế khiến phụ huynh ngộ nhận chọn lựa làm nguồn dinh dưỡng chính cho con mình trong những năm đầu đời.
Ngành y tế Việt Nam trong những năm qua đã thực hiện nhiều chiến lược quan trọng để đẩy mạnh việc nuôi con bằng sữa mẹ, tuy vậy, nguồn lực y tế còn hạn chế cũng khiến việc can thiệp và hỗ trợ toàn diện cho các bà mẹ chưa thể diễn ra như mong đợi. Trong khi chờ đợi sự hoàn thiện của hệ thống y tế, mỗi chúng ta hãy giúp thúc đẩy, hỗ trợ, giải quyết các rào cản, nâng cao nhận thức, truyền tải các thông điệp quan trọng về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ để mỗi trẻ em ra đời không mất đi quyền được ôm ấp trong vòng tay bà mẹ, được bú những giọt sữa mẹ ngọt ngào quý giá trong giờ đầu sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và kéo dài đến sau 24 tháng tuổi.
Từ ngày 1 đến 7/8/2025, Tuần lễ Thế giới Nuôi con bằng sữa mẹ sẽ được tổ chức với chủ đề "Ưu tiên nuôi con bằng sữa mẹ: Tạo dựng hệ thống hỗ trợ bền vững".
Nhằm hưởng ứng sự kiện này, Cục Bà mẹ và Trẻ em, Bộ Y tế vừa có văn bản gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố và các bệnh viện có khoa sản, khoa nhi, đề nghị triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm khuyến khích và hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM).
Theo Cục Bà mẹ và Trẻ em (Bộ Y tế), việc nuôi con bằng sữa mẹ không chỉ mang lại lợi ích to lớn cho sức khỏe trẻ nhỏ và người mẹ, mà còn góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng hệ thống hỗ trợ bền vững cho các bà mẹ nuôi con bú là yêu cầu cấp thiết.
Bộ Y tế đề nghị các địa phương tăng cường thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình chăm sóc dinh dưỡng trong 1.000 ngày đầu đời, nhằm bảo đảm hỗ trợ NCBSM cho mọi bà mẹ, đặc biệt ưu tiên nhóm phụ nữ tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Tùy theo điều kiện thực tế, các địa phương cần chỉ đạo cơ sở y tế trên địa bàn triển khai các hoạt động thúc đẩy NCBSM một cách phù hợp và hiệu quả.
Bộ Y tế yêu cầu các bệnh viện sản, nhi và cơ sở khám chữa bệnh có khoa sản, nhi hoặc sản – nhi nghiêm túc tuân thủ Nghị định số 100/2014/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý việc kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng thay thế sữa mẹ, bình bú, núm vú nhân tạo. Đồng thời, cần phổ biến, quán triệt nội dung Nghị định đến toàn thể nhân viên y tế.
Bên cạnh đó, các đơn vị cần triển khai hiệu quả Thông tư số 38/2016/TT-BYT về thúc đẩy NCBSM tại các cơ sở khám, chữa bệnh. Trong đó, nhấn mạnh việc duy trì tư vấn cho phụ nữ mang thai và sau sinh về lợi ích của NCBSM; hướng dẫn cách cho con bú đúng cách, bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu, duy trì đến 24 tháng tuổi; đồng thời hỗ trợ nhóm trẻ sinh non, nhẹ cân, bệnh lý được tiếp cận nguồn sữa mẹ.
Đặc biệt, việc thực hiện chăm sóc thiết yếu bà mẹ và trẻ sơ sinh trong và ngay sau sinh là yếu tố then chốt giúp nâng cao tỷ lệ trẻ được bú mẹ sớm trong vòng 1 giờ đầu đời.