Có một số phát minh và khám phá khoa học cực kỳ độc đáo trong thời đại của chúng ta không phải được hình thành từ bộ óc của một thiên tài mà là xuất phát từ một tai nạn mang tính ngẫu nhiên. Trong nhiều trường hợp, những phát minh này làm thay đổi diện mạo của những ngành công nghiệp chủ chốt hoặc sáng tạo ra một lĩnh vực mới.
Thuốc kháng sinh penicillin
Trở về nhà sau một chuyến đi nghỉ mát vào năm 1928, Alexander Fleming, một nhà vi khuẩn học người Scotland, đã ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng lớp meo đã mọc trên một số mẻ cấy vi khuẩn staphylococcus mà ông đã để ra không khí. Thứ meo vi khuẩn này được Fleming đặt tên là penicillium Notatum, có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn gây hại. Cho mãi đến năm 1940, các nhà khoa học tại trường Đại học Oxford cuối cùng đã tìm ra cách "tách" penicillin thành công và phát triển nó thành thuốc kháng sinh đầu tiên.
Thuốc kháng sinh penicillin. |
Máy điều hoà nhịp tim cấy ghép
Những thiết bị máy điều hoà nhịp tim đầu tiên được sử dụng dòng điện xoay chiều, và những thiết bị này được treo trên tường, hơi bất tiện vì giường bệnh nhân bị mắc bệnh tim phải kê gần sát tường. Mọi chuyện đã thay đổi vào một buổi chiều của năm 1958, khi Wilson Greatbatch, một kỹ sư ở Buffalo, New York (Mỹ), đang cố gắng trong việc chế tạo ra máy tạo dao động nhằm ghi âm thanh của nhịp tim đập. Tuy nhiên, trong lúc chế tạo, Greatbatch đã nhầm lẫn trong việc treo cái điện trở, khiến dòng diện bị đảo chiều, nhưng lại ghi rõ cảm nhận tiếng tim đập trên cơ thể người. Greatbatch ngạc nhiên vì kết quả thử nghiệm khá kỳ quặc, ông đã gặp gỡ William Chardack, người đứng đầu khoa mổ tại một bệnh viện gần đó nhằm giúp đỡ. Tại bệnh viện nơi Chardack đang làm việc, Greatbatch đã thử nghiệm thiết bị mới của mình trên một con chó và nhảy cẫng lên vì vui mừng khi máy điều hoà nhịp tim đã ghi chính xác nhịp tim đập, thử nghiệm này diễn ra vào năm 1959, trở thành người đầu tiên trên thế giới chế tạo thành công chiếc máy điều hoà nhịp tim có thể cấy dưới da người.
Màu hoa cà
Đôi khi các nhà khoa học lại vô tình khám phá ra những thứ nằm ngoài đề tài khoa học, trường hợp đó thuộc về nhà hoá học người Anh tên là William Perkin. Giấc mơ lớn nhất đời ông là tìm ra phương pháp chữa trị dứt điểm căn bệnh sốt rét. Vào năm 1856, Perkin thử nghiệm trên một dạng thuốc ký ninh nhân tạo, sau khi thử nghiệm ông đã thu về một loại cặn đặc có màu đen. Đó là một kết quả dễ làm thất vọng, nhưng thay vì ném cái cặn đen kia đi, Perkin đã tỉ mỉ quan sát màu sắc của nó. Thực sự, lớp cặn không phải đen mà là nó có màu tím, mà màu tím cũng là thứ màu khá ưa chuộng trong y phục thời trang thời kỳ đó. Perkin đã tách chất màu tím trong cặn để sản xuất ra một chất màu hoa cà và xem nó là một loại phẩm nhuộm. Năm 1857, Perkin đã được cấp bằng phẩm màu nhân tạo, đây cũng là loại phẩm màu nhân tạo đầu tiên của loài người, sau đó Perkin mở một công ty chuyên bán loại phẩm màu hoa cà này.
Kem que
Mọi trẻ em trên thế giới đều tự hào bởi phát minh ngẫu nhiên của Frank Epperson. Vào năm 1905, Epperson mới 11 tuổi, có một lần cậu đã gặp tai nạn khi vô tình làm đổ một dạng chất lỏng có độ dính, rớt ngay trước cổng vào ngôi nhà của cậu ở San Francisco (Mỹ). Tai nạn xảy ra vào một đêm giá lạnh, ngày sau đó, cậu bé nhìn thấy cái tách đựng chất lỏng bị đổ hôm qua đã bị đông cứng lại thành que. Trong lúc đó, Epperson không hề có suy nghĩ gì về hiện tượng này thì gần 2 thập niên sau đó, ông đã được cấp bằng "tuyết đóng thành kem trên que" và gọi chung là Eppsicle, nhưng sau đó Eppsicle đổi tên thành "Popsicle" (kem que) do bởi trẻ em thích tên gọi này hơn. Vài năm sau đó, Frank Epperson bán lại phát minh của mình cho Công ty Joe Lowe ở thành phố New York (Mỹ). Ngày nay, kem que đã trở nên thông dụng với mọi người trên toàn thế giới, ước tính có hơn 30 hương vị kem que đang được ăn hàng ngày.
Lò vi sóng
Vào năm 1946 kỹ sư Percy Spencer của hãng Raytheon đã thử nghiệm Manhêtrôn - một dạng thiết bị có khả năng thoát ra bức xạ sóng vi ba - và ông cảm nhận rằng thỏi kẹo đựng trong túi áo đã bị tan chảy. Lập tức ông hiểu ra rằng Manhêtrôn có thể tương tác với các vật thể và sinh ra các hiệu ứng. Để chắc ăn, ông đã cho nấu một quả trứng, nó phát nổ. Mặc dù tai nạn, nhưng ông cũng hiểu rằng năng lượng lò vi sóng có thể làm chín thức ăn rất nhanh chóng. Spencer và các kỹ sư khác bèn bắt đầu phương án sử dụng tia sóng bức xạ này để ứng dụng cho các công dụng khác nhau. Vào năm 1947, thiết bị lò vi sóng đầu tiên trên thế giới đã ra đời, nó nặng khoảng 750 cân Anh, giá chỉ vài đôla, đến năm 1975 lò vi sóng đã được sản xuất đại trà và trở nên phổ biến.
Lò vi sóng. |
Thuốc nổ Dinamit
Alfred Nobel, người thành lập nên giải thưởng Nobel danh giá mang tên ông. Vào thập niên 1860, nitroglycerin là một dạng thuốc nổ rất phổ biến, nhưng nó không bền. Cũng như không dễ dàng cho bất kỳ ai xử lý thứ chất nổ này. Nobel làm chủ một nhà xưởng sản xuất nitroglycerin, ông biết rằng thứ chất nổ nguy hiểm này cũng có thể "kiểm soát" cho nó an toàn hơn, vì thế ông bắt tay vào thực nghiệm. Một ngày nọ, khi nghiên cứu chất nổ trong phòng thí nghiệm, Nobel đã vô ý làm rớt một cái lọ ngay trên nền nhà. May quá, lọ không phát nổ, ông nhận ra nguyên do là bởi vì khi rớt, nước thuốc trong cái lọ đã ngấm qua mùn cưa. Từ một tai nạn nhỏ nhưng đã phút chốc trở thành một ý tưởng lớn trong việc tạo ra nitroglycerin an toàn hơn. Nobel đã kết hợp đất tảo cát - một dạng silic - và thuốc nổ, từ đây bắt đầu hình thành quy trình sản xuất dinamit trên quy mô lớn.
Teflon
Roy Plunkett, một nhà hoá học tại DuPont và cộng sự của ông là Jack Rebok, đã bắt tay nhau để phát triển một chất làm lạnh chlorofluorocarbon (CFC) mới bằng cách sử dụng tetrafluoroethylene (TFE) vào năm 1938. Bằng cách pha trộn TFE và axit hydrochloric và đặt chúng vào trong một cái hộp nhỏ rồi để khô tự nhiên qua đêm. Vào ngày kế tiếp, lạ chưa không sao mở nắp hộp được, khi nhìn vào khe hộp, Plunkett thấy cái hộp chỉ còn lại một nửa, họ khám phá ra rằng khí gas có trong hộp đã chuyển hoá thành một dạng lỏng, màu trắng trông như bột tuyết. Plunkett đã thử nghiệm một loại pôlime mới và nhận thấy rằng nó có khả năng đề kháng hơi nóng. Nó có khả năng chống kết dính hiệu quả. Với khám phá này, Plunkett đã nhận được bằng phát minh vào năm 1941, chất khám phá được đặt tên là Teflon vào năm 1944.
Thép không gỉ. |
Thép không gỉ
Chiếc nĩa mà bạn hay dùng để xiên thức ăn hàng ngày là sáng tạo của Harry Brearley - một nhà luyện kim người Anh. Tuy nhiên, thép không gỉ không phải hoàn toàn là công trình khoa học của Brearley, vì những nhà luyện kim trong gần một thế kỷ trước ông đã thử nghiệm với nhiều hỗn hợp kim loại khác nhau, nhằm tạo ra những dạng kim loại không bị ăn mòn. Nhưng chưa ai từng thành công cho mãi đến khi Brearley chế tạo thành công vào năm 1913. Ông đã thuê một vài nhà sản xuất vũ khí, những người này chuyên chế tạo nòng súng, tham gia vào việc phát triển ra một loại hợp kim có khả năng chống lại sự ăn mòn. Brearley đã cho thử nghiệm nhiều yếu tố khác nhau vào các phần kim loại cho đến khi ông đã tạo ra một loại thép có chứa 12,8% chromium và 0,24% carbon. Có người cho rằng trong sản phẩm thép không gỉ ngoài hai thành phần kể trên, Brearley còn cho thêm axit nitric. Kết quả, hợp kim thép không gỉ có khả năng đề kháng cao ngay cả với nước chanh, Brearley còn khám phá ra rằng thép không gỉ sẽ là kim loại hoàn hảo cho việc làm ra dao kéo.
NGUYỄN THANH HẢI (Theo Newsweek)