Những nụ cười trên dòng Hoài giang

14-09-2012 13:05 | Xã hội
google news

Trên một khúc sông rộng, bên sự phồn hoa của phố xá vẫn có những con người ngày ngày lặng lẽ mưu sinh bằng những công việc đơn giản nhất.

(SKDS) - Trên một khúc sông rộng, bên sự phồn hoa của phố xá vẫn có những con người ngày ngày lặng lẽ mưu sinh bằng những công việc đơn giản nhất. Cuộc mưu sinh nào chẳng nhiều vất vả. Nhưng với họ, mưu sinh dẫu có vất vả đến bao nhiêu thì nụ cười vẫn luôn hiện hữu trên khuôn mặt…

Ðời nữ chèo đò

Bên bến sông Bạch Đằng của phố Hội, có những chiếc ghe máy mà người lái ghe không phải cánh đàn ông sức dài vai rộng, họ chỉ là những người phụ nữ tóc đã muối tiêu ngày ngày đứng đợi khách. Bóng dáng họ in trên nước dòng sông trưa nắng nhỏ nhắn, chiếc ghe của họ cũng nhỏ, và những câu chuyện của họ cũng nhỏ. Khi tôi một mình lang thang trên phố Hội, người phụ nữ có khuôn mặt khắc khổ với nắng gió nhoẻn miệng cười mời tôi lên chiếc ghe của chị.
 
Chị bảo, mấy ngày vừa rồi bị đau nằm liệt giường, giờ mới gượng dậy được cũng lần mò ra đây chở lấy chuyến khách mà kiếm ít tiền mua thuốc uống và mua cho đứa nhỏ mấy cuốn sách giáo khoa vì sắp vào năm học mới rồi. Nếu ở một nơi khác, có lẽ lời mời gọi đó không làm tôi nao núng. Nhưng ở Hội An, nơi tình trạng chèo kéo khách tuyệt nhiên không có, thì tôi tin những lời chị nói.
 Chị Trần Thị Nhường lái chiếc ghe máy mưu sinh.

Tôi bước lên thuyền, chị lập cập tháo dây, đẩy chiếc ghe máy chầm chậm rời bến trong lời khích lệ của đồng nghiệp. Tôi nhìn quanh bến đò này chợt lấy làm lạ, bởi trong số hơn hai chục chiếc ghe máy ở đây, người lái đều là phụ nữ. Những người phụ nữ tóc đã hai màu nắng mưa nhưng vẫn cười rất tươi, vẫy tay chào tôi. Tôi hỏi người lái ghe của mình. Chị cười: “Ở đây chủ yếu là phụ nữ lái ghe thôi chú ơi. Chị nào, cô nào cũng có chiếc ghe như tui đây đưa khách đi trên sông Hoài này đấy. Nói thế thôi chứ cũng cực nhọc lắm chứ đâu sung sướng gì!”. Và cứ thế, trong tiếng nổ ồn ào của máy ghe, chị kể cho tôi về chị và những người phụ nữ lái ghe bên bến Bạch Đằng của phố Hội.

Chị là Trần Thị Nhường (45 tuổi, Cẩm Kim, Hội An), hành nghề này đã gần chục năm. Mấy bữa trước, chiếc ghe của chị mới được làm lại vì khách chê xấu, không dám đi. Chị đầu tư lại hơn chục triệu đồng để “tân trang” lại chiếc ghe này, hy vọng sẽ có nhiều khách hơn. Và tôi là người “mở hàng” cho chiếc ghe của chị. Trước đây chị cũng đi biển. Người phụ nữ nào đi biển cũng có nhiều khốn khó riêng và cực nhọc hơn so với cánh đàn ông.
 
Nhưng rồi sức yếu, chị đành bỏ biển, về lại bến Bạch Đằng để chở khách với chiếc ghe cũ mua lại của một người bạn, và ngày ngày cặm cụi ngồi đợi khách bên bến sông này. Tôi hỏi: Đưa khách đi thế này với đi biển cái nào nhiều tiền hơn? Chị cười rổn rảng: “Ngày trước đi biển có tiền hơn chứ! Nhưng chừ già rồi, và biển không còn hào phóng như xưa nữa. Chừ về với chiếc ghe này cũng cố kiếm chút tiền nuôi hai đứa con đang tuổi ăn tuổi học. Ngày mô có khách thì cũng được đôi ba trăm, có ngày thì ngồi không vậy! Ở đây ai cũng rứa cả chú à!”.

Tôi hỏi thêm về mấy người phụ nữ trên bến Bạch Đằng, hóa ra các chị cũng đều xuất thân từ những người đàn bà đi biển, không còn sức bôn ba với những con sóng ngoài khơi nữa, giờ về làm bạn với chiếc ghe máy nhỏ và ngày ngày ngồi đợi khách. Chị Nhường cho biết, trên bến Bạch Đằng có nhiều người phụ nữ làm nghề này giống chị, như chị Nguyễn Thị Vân, Trần Thị Chỉnh, Trần Thị Xí, Nguyễn Thị Kiều, Nguyễn Thị Mại... và nhiều người khác như các chị, cũng đều ở cái tuổi xấp xỉ 50 cả. Cuộc mưu sinh với biển cả đã bào mòn nhiều sức lực, thế nên giờ về với bến Bạch Đằng, với những chuyến đưa khách trên sông cũng bớt nhọc nhằn hơn.

Nhưng những chiếc ghe máy của các chị cũng chẳng thể so được với những chiếc du thuyền hào nhoáng, được đầu tư kỹ càng của các công ty du lịch ở Hội An này. Thế nên thu nhập của các chị cũng bấp bênh như con nước sông Hoài vậy. Có ngày chạy được vài chuyến, có được hai ba trăm ngàn, trừ tiền thuế bến, tiền xăng dầu, tiền đầu tư máy móc cũng chỉ dư ra chưa tới trăm ngàn. Đấy là ngày có khách, còn những ngày mưa bão, những ngày ế khách thì chịu. Tính ra thu nhập cả tháng cũng chẳng được bao nhiêu. Mà khách xuống thuyền của các chị cũng chỉ là khách lẻ, thích được cái cảm giác đi chầm chậm trên sông. Các chị cũng tập tành làm hướng dẫn, khách nào thích thì cho thêm đôi ba chục tiền công, gọi là...

Hầu hết những người phụ nữ làm nghề chèo ghe đưa khách bên bến Bạch Đằng này đều cố gắng bám trụ, vì cuộc mưu sinh nào chẳng nhiều vất vả. Bảo làm việc khác được không, các chị đều ngần ngại trả lời: “Còn việc chi nữa hả chú! Giờ không còn sức, không có vốn thì biết làm chi. Thôi thì cứ theo với chiếc ghe này vậy, được thì tốt, không được thì cũng có chi mô! Ngày ngày ra đây ngồi với mấy chị em, thế cũng đủ rồi!”. Thì ra thế, vẫn biết mỗi chiếc ghe là cả một bát cơm lênh đênh trên dòng Hoài giang, nhưng vẫn thấy ngậm ngùi cho các chị...

Những người quăng chài cho khách chụp hình

Lênh đênh giữa dòng Hoài giang, chị Nhường chỉ cho tôi thấy những chiếc xuồng nhỏ, trên chiếc xuồng nào cũng có hai người, một người chèo xuồng, một người quăng chài. Tôi hỏi: Khúc sông này có cá không mà quăng chài như thế? Chị Nhường cười tủm tỉm: “Họ quăng chài cho khách chụp hình đó chớ có cá chi mô!”. Tôi lấy làm lạ, chị Nhường liền lái chiếc ghe tới gần một chiếc xuồng, gọi to: “Bác Ba ơi! Quăng chài cho khách chụp hình kìa!”.
 
 Những người quăng chài trên sông cho khách chụp hình.
Nghe vậy, một bóng người nhổm lên, chầm chậm quăng chiếc chài xuống lòng sông rộng. Tôi bấm máy lia lịa để lưu lại những khoảnh khắc trên sông. Chị Nhường bảo: “Mấy người đó trước đây là dân chài lưới cả đó. Nhưng rồi đánh bắt cá hoài cũng hết, vả lại cũng không còn sức nên họ chuyển qua cách này để kiếm tiền đó. Ban đầu họ cũng không biết mô, nhưng thấy khách du lịch cứ chụp ảnh họ quăng chài, mỗi lần như vậy xong có cho họ ít tiền để cảm ơn, lâu dần thành lệ nên họ chuyển qua làm cái “nghề” này luôn đó chớ!”.
 
Tôi chợt hiểu ra, đây là thành phố du lịch, nên khách du lịch nước ngoài khá đông, trong khi họ lại rất thích thú với những nét văn hóa và đời sống bình dị của người Việt Nam. Và có lẽ đây cũng là một cách kiếm tiền khá độc đáo của những người quăng chài này. Trên cả một khúc sông rộng, tôi ước chừng cũng có tới gần 20 chiếc xuồng nhỏ quăng chài cho khách chụp hình như thế. Lại gần chiếc xuồng của người vừa quăng chài cho tôi chụp hình, người đàn ông trên xuồng có cái tên Lê Khó (67 tuổi, Cẩm Nam, Hội An) cười thật tươi: “Cực chẳng đã mới làm nghề này thôi chú ơi.
 
Như tui và ông bạn đây đã “hợp tác” với nhau mấy năm nay rồi. Ổng năm nay đã 78 rồi đó chú, ổng không đủ sức quăng lưới nữa, nên giờ ổng chèo, tui quăng! Xuồng nào cũng phải có hai người hết đó. Một mình thì không cách gì làm được hết!”. Ông lão chèo xuồng cũng góp lời: “Bữa ni quăng chài ít cá lắm, thu nhập không được là bao nên chúng tôi chuyển qua cách ni, vừa nhẹ nhàng lại vừa có tiền, lại được lên báo nhiều nữa!”. Rồi ông cười, đôi mắt hấp háy niềm vui...

Những người quăng chài này không vòi tiền của khách, cho bao nhiêu thì họ nhận bấy nhiêu, và lúc nào cũng cười. Thật ra, thu nhập của những người này cũng lại phụ thuộc vào những chiếc thuyền, chiếc ghe đưa khách trên sông như của chị Nhường. Vì có khách đi ghe đến đó thì họ mới quăng chài cho khách được. Thế nên hầu hết những người quăng chài và những người lái ghe máy đều biết nhau, biết hoàn cảnh cũng như thường xuyên tâm sự với nhau. Họ phải “cộng sinh” để kiếm sống trên khúc sông Hoài này. Du lịch thì theo mùa, họ cũng theo mùa để mưu sinh. Những ngày mưa bão, khúc sông sủi ngầu lên cũng là những ngày họ nằm bờ mà mong trời đừng nổi gió...

Nhìn những người phụ nữ cặm cụi chở khách trên sông, hay ngồi đợi khách bên bến Bạch Đằng, hay với cả những người dân nghèo quăng lưới trên sông cho khách có những khung hình đẹp, tôi hiểu rằng với mỗi con người, cuộc mưu sinh nào cũng đầy khốn khó. Thế nhưng trên khuôn mặt họ lúc nào cũng có nụ cười hiện hữu, làm sáng bừng lên trên những bức ảnh theo khách nước ngoài đi khắp năm châu. Họ chính là những người mang nụ cười Việt Nam lạc quan yêu đời đi khắp thế giới này...

Bài và ảnh: Hữu Cường


Ý kiến của bạn