Kháng sinh không diệt được virut, song các nhà khoa học cũng đã tìm ra nhiều loại thuốc khác có khả năng kháng virut. Tuy nhiên virut lại luôn tìm cách chống đỡ lại thuốc kháng virut bằng cách thay đổi hình dạng của mình. Đó chính là nguyên nhân làm hạn chế tác dụng của các thuốc kháng virut hiện nay.
Virut là loại vi sinh vật nhỏ hơn rất nhiều so với vi khuẩn (chỉ nhìn được nhờ kính hiển vi điện tử) và bắt buộc phải sống ký sinh, “ăn nhờ ở đậu” bên trong tế bào ký chủ mà nó xâm nhiễm. Ví dụ HIV sống bên trong tế bào bạch cầu có tên Lympho -bào T gọi tắt là CD4, còn virut cúm A sống bên trong tế bào của hệ hô hấp...
Quá trình xâm nhiễm và nhân lên của virut trong tế bào gồm các giai đoạn: Gắn và xâm nhập tế bào bằng cách trút bỏ lớp vỏ và hòa nhập capsid vào bên trong tế bào bị nhiễm; Dựa vào hoạt động của tế bào bị nhiễm, virut tổng hợp nguyên liệu mà nó cần; Cũng bên trong tế bào bị nhiễm virut tìm cách nhân lên nhiều virut mới (gọi là sự sao chép của virut). Cuối cùng các virut mới trưởng thành được phóng thích khi tế bào đã nhiễm để xâm nhập các tế bào mới.
Quá trình xâm nhập của virut.
Hiểu được cấu trúc và cách sinh sống của virut, các nhà khoa học tìm ra thuốc kháng virut có cơ chế tác động vào các giai đoạn đã kể trên, gồm các thuốc:
Amantadin: tác động ở giai đoạn 1, tức là ức chế sự hòa nhập virut vào bên trong tế bào ký chủ. Cũng thuộc loại này acyclovir ức chế sự tổng hợp DNA của virus Herpes.
Zidovudin (retrovir, gọi tắt là AZT): đây là thuốc điều trị HIV. Cơ chế của thuốc là ức chế sự phiên mã ngược RNA thành DNA của HIV làm cho HIV ngưng phát triển, không sinh sản được. Cũng thuốc loại này còn có didancsine, zalcitabin, lamivudin...
Cseltamivir (tamiflu): thuốc có tác dụng ở giai đoạn cuối tức là ngăn không cho virut cúm sao chép trưởng thành và phóng thích ra khỏi tế bào bằng cách ức chế men neuraminidase (chính là kháng nguyên N của lớp vỏ của virut cúm).
Thuốc ức chế protease: gồm có indinavir, ritonavir, saquinavir, nelfinavir. Đây là nhóm thuốc phối hợp với AZT để trị HIV. Cơ chế của thuốc ức chế protease làm cho men phân giải đạm của HIV không hoạt động được để nó nhân lên thành nhiều con HIV mới.
Gamma globulin và Interferon: đây chính là các chất sinh học do cơ thể sản xuất ra để chống lại virut. Gamma globulin ngăn virut xâm nhập vào tế bào vì có chứa kháng thể chống lại kháng nguyên bề mặt nằm trên lớp vỏ của virut. Còn Interferon kháng virut bằng cách ngăn cản virut tổng hợp protein, RNA hoặc DNA của nó trong tế bào. Như vậy, trong cơ thể ta luôn có nội lực kháng lại bệnh tật, kể cả các bệnh truyền nhiễm do virut. Hiểu rõ điều này, các nhà khoa học đã tổng hợp gamma globulin và interferon dùng làm thuốc.
Điều cần quan tâm là virut luôn tìm cách chống đỡ lại thuốc kháng virut gây tình trạng kháng thuốc. Nhiều virut, đặc biệt có virut cúm luôn thay đổi hình dạng của nó để có khả năng thích ứng chống lại tác dụng của thuốc. Nguyên nhân của sự thay đổi hình dạng là vì virut không có cơ chế chỉnh sửa các sai sót trong quá trình sao chép dẫn đến sự biến đổi cấu trúc gen ở những virut mới mà nó nhân lên. Điều này làm xuất hiện các phân typ virut mới với những kháng nguyên mới. Chính vì thế vào lúc này, virut là “đích tác dụng” với một số thuốc kháng virut nhưng vào lúc khác nó thay đổi không là “đích tác dụng” của các thuốc đó nữa. Đây là nguyên nhân làm hạn chế tác dụng của thuốc.