Đối với người bệnh mạn tính, việc sử dụng thuốc thường xuyên là bắt buộc. Tuy nhiên, khi càng sử dụng nhiều thuốc cùng lúc thì sự tương tác càng dễ xảy ra. Điều này có thể dẫn đến giảm hiệu lực điều trị của thuốc, tăng tác dụng phụ, thậm chí gây tử vong cho người dùng. Những cặp thuốc được liệt kê dưới đây đã được chứng minh rằng nếu dùng chung có thể gây ra những tương tác nghiêm trọng.
Kháng sinh với thuốc chẹn kênh calci
Khi dùng đồng thời kháng sinh clarithromycin với thuốc giãn mạch chẹn kênh calci như amlodipin và felodipin có thể gây tụt huyết áp và suy thận cấp. Clarithromycin làm giảm tác dụng của nifedipin (một loại thuốc điều trị tăng huyết áp và đau thắt ngực) bằng cách ức chế sự chuyển hóa CYP3A4 dẫn đến hạ huyết áp, một nguy cơ nghiêm trọng nhưng chưa được đánh giá đúng mức. Các thuốc khác thuộc nhóm macrolid cũng có thể thúc đẩy sự tương tác này khi được dùng đồng thời với thuốc chẹn kênh calci bao gồm erythromycin. Do vậy, khi cần thiết phải dùng một loại thuốc trong nhóm macrolid cho một bệnh nhân đang sử dụng thuốc chẹn kênh calci thì tốt nhất nên dùng azithromycin - loại thuốc không ức chế CYP3A4.
Ngoài ra, tương tác thuốc có khả năng nghiêm trọng khác có thể xảy ra khi kết hợp thuốc clarithromycin với nhóm thuốc statin (đặc biệt là simvastatin hoặc lovastatin) và colchicin. Dùng chung clarithromycin với thuốc cho người đái tháo đường như glipizide hoặc glyburid có thể dẫn đến hạ đường huyết.
Kết hợp các thuốc NSAID và thuốc điều trị tăng huyết áp làm trầm trọng bệnh hơn.
Thuốc chống đông máu và thuốc giảm đau
Những bệnh nhân đang dùng warfarin (thuốc chống đông máu) thường được khuyên nên chọn acetaminophen (paracetamol) để giảm đau vì thuốc chống viêm không steroid (NSAID) có thể làm tăng nguy cơ xuất huyết tiêu hóa. Nhưng sự tương tác giữa warfarin và acetaminophen vẫn là một ẩn số. Nhiều bác sĩ kê đơn không nhận được dữ liệu về việc sử dụng thường xuyên acetaminophen làm tăng tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế INR (INR-là tỷ số giữa tỷ lệ prothrombin của bệnh trên tỷ lệ prothrombin chứng, thường người ta duy trì tỉ số này trong khoảng từ 2 - 3 vì nếu thấp hơn 2 sẽ tăng nguy cơ tắc van do cục máu đông. Còn nếu tỉ số này cao hơn 3 sẽ tăng nguy cơ chảy máu). Những bệnh nhân đang dùng warfarin cần được theo dõi chặt chẽ và INR nên được thực hiện sau 3-5 ngày khi bệnh nhân bắt đầu dùng hàng ngày acetaminophen. Với các trường hợp chỉ dùng một liều acetaminophen thì không cần thiết làm việc này. Vì vậy, khi một bệnh nhân sử dụng warfarin có thay đổi đáng kể trong INR thì cần xem xét họ có đang dùng acetaminophen hay không.
Ngoài ra, thuốc prednisone nhóm thuốc corticosteroid được dùng để điều trị viêm khớp, rối loạn về máu, vấn đề về hô hấp, dị ứng nặng, bệnh về da, ung thư, vấn đề về mắt và rối loạn hệ thống miễn dịch thường làm tăng INR và có thể là một nguyên nhân bị bỏ qua ở những bệnh nhân đang điều trị warfarin. Trong khi dùng prednisone đợt ngắn có thể làm tăng INR thoáng qua và chưa cần điều chỉnh liều warfarin của bệnh nhân nhưng cần thận trọng nếu dùng thuốc làm tăng INR (ví dụ TMP/SMX).
Thuốc hạ huyết áp và thuốc chống viêm không steroid (NSAID)
NSAID là những thuốc sử dụng rộng rãi nhất và thường có liên quan đến huyết áp cao. Nhóm NSAIDs ức chế cả enzym COX-1 và COX-2, làm giảm tổng hợp prostaglandin. Ức chế prostaglandin làm tăng sức bền cơ trơn động mạch thận và natri niệu dẫn đến giữ nước phụ thuộc liều. Bằng những cơ chế này, NSAID có thể làm giảm hiệu quả của một số thuốc hạ huyết áp thường được sử dụng nhiều nhất (thuốc lợi tiểu, thuốc ức chế men chuyển (ACEI) và thuốc ức chế thụ thể amgiocensin ARB). Bởi vì NSAID có sẵn mà không cần kê đơn, bệnh nhân có thể làm trầm trọng thêm bệnh tăng huyết áp bằng cách sử dụng các loại thuốc này. Các NSAID có ảnh hưởng nhất về huyết áp là indomethacin, piroxicam và naproxen. NSAID có tác dụng trung bình trên huyết áp bao gồm ibuprofen, rofecoxib và celecoxib, mặc dù mức độ tác động này vẫn đang được điều tra. Aspirin không làm tăng đáng kể huyết áp, thậm chí ở những bệnh nhân tăng huyết áp.
Ngoài làm giảm tác dụng hạ huyết áp của thuốc lợi tiểu, NSAID có thể làm tăng nguy cơ suy thận cấp khi dùng kết hợp với ACEIs và ARBs. Phác đồ 3 thuốc phổ biến (thuốc ACEI hoặc ARB hay thuốc lợi tiểu và một NSAID) đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ suy thận cấp tính 31%. Các bác sĩ và dược sĩ nên hỏi bệnh nhân đang được điều trị tăng huyết áp về việc họ sử dụng NSAID, đặc biệt là những người có tăng huyết áp không đáp ứng với điều trị khác.
Thuốc bổ sung hormon tuyến giáp và thuốc ức chế bơm proton (PPI)
Thuốc ức chế bơm proton, statin, sắt, canxi, magiê, raloxifene và estrogen có thể cản trở sự hấp thụ hormon tuyến giáp khiến những bệnh nhân đã được kiểm soát tốt bệnh trước khi bổ sung hormon tuyến giáp có thể bị nhược giáp.
Sự tương tác giữa levothyroxin và omeprazole ở bệnh nhân bị suy giảm tiết acid dạ dày đòi hỏi tăng liều thyroxin đường uống, điều này cho thấy rằng sự tiết axit thông thường là cần thiết cho sự hấp thụ đường uống có hiệu quả của thyroxin. Bệnh nhân có tuyến giáp bình thường sau khi dùng levothyroxin cần xét nghiệm chức năng tuyến giáp sau khi dùng PPI, đặc biệt là nếu các triệu chứng của suy giáp xuất hiện. Và những người có tiết acid dạ dày bị suy yếu có thể tăng liều levothyroxin để giữ hormon kích thích tuyến giáp trong phạm vi điều trị.