Bát Xát là vùng núi đồi hùng vĩ, cheo leo và hiểm trở phía Tây của tỉnh Lào Cai, với những đỉnh cao chót vót của dãy Hoàng Liên Sơn quanh năm sương mù bao phủ... Cho đến nay, do nhiều lý do cả khách quan và chủ quan mà hầu như toàn bộ khu vực này đều không còn rừng, hoặc chỉ là một chút hiếm hoi những khu rừng tái sinh thưa thớt... Nhưng giữa cả một vùng đất bao la trơ trụi đó, xung quanh những ngôi làng của người Hà Nhì vẫn còn những màu xanh tươi tốt của những cánh rừng già với những cây cổ thụ, dây leo chằng chịt như những ốc đảo bình yên.
![]() Bản định cư người Hà Nhì xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. |
Lao Chải theo nghĩa Hán là “thôn gốc”, “thôn cũ”, bởi đây là thôn đầu tiên với gần 80 hộ dân, 100% là người Hà Nhì đen.
Sống giữa thiên nhiên hào sảng nhưng hà khắc, củi là biểu hiện của sự nết na, chăm chỉ, là hiện thân lặng lẽ của mong ước giàu có. Thế nhưng người Hà Nhì lại là dân tộc có truyền thống giữ rừng vô cùng nghiêm khắc. Điều này thoạt nghe tưởng như nghịch lý, thế nhưng không phải vậy. Cũng như rất nhiều dân tộc sống gắn bó với rừng, từ ngàn xưa, tổ tiên người Hà Nhì đã sống với núi rừng biên viễn, vẫn xem rừng thiêng là nguồn sống. Họ quan niệm, rừng và cây rừng, con thú trong rừng đều có sinh mạng, có đời sống như con người; trong mỗi khu rừng đều có một vị thần trị vì, con người với cây, với thú trong rừng đều có quan hệ họ hàng, một số loài động thực vật còn là vật tổ của các dòng họ, như sóc là vật tổ của họ Dờ, hổ là tổ tiên của họ Ché... Quan niệm như vậy khiến cho tất cả mọi người trong cộng đồng hết sức quan tâm đến rừng, có thái độ kính trọng, chăm sóc, bảo vệ rừng kỹ lưỡng...
***
Trong ngôi nhà trình tường ấm áp của già làng Phu Ha Giờ, những người đàn ông đang ngồi bên bếp sưởi lửa, già làng đang ngồi uống rượu. Bên ánh lửa bập bùng và hương rượu ngô thơm nồng, già làng Phu Ha Giờ kể: “Bản của người Hà Nhì gọi là “Phu”. Mỗi “Phu” có các loại rừng cấm, rừng thiêng và rừng cộng đồng khác nhau. Ở Lao Chải này cũng vậy, có 4 khu rừng cấm, được cộng đồng tôn thờ, chăm sóc và bảo vệ từ nhiều đời nay. Mỗi khu rừng đều có quy định thời gian, lễ vật và người đứng ra cúng rất cụ thể, không bao giờ được vi phạm. Trước đây có người ở nơi khác đến do không biết nên vào chặt cây trong rừng cấm, bị phạt rất nặng...”
Đã gọi là rừng thiêng thì không ai được tự ý xâm phạm, ngoài người được phân công chăm sóc việc cúng lễ tại những khu rừng này, gọi theo tiếng Hà Nhì là Gạc ma guy. Ở Lao Chải, Gạc ma guy là Phu Che Xa, con trai già làng Phu Ha Giờ... Chất thêm một khúc củi khô nữa vào lò, Phu Che Xa đứng dậy cùng một số thanh niên trong thôn dẫn chúng tôi ra thăm rừng, một việc làm hy hữu ở đây trong những ngày không phải là vào dịp lễ hội như thế này...
Vận mệnh của dân làng gắn liền với vận mệnh của những cánh rừng này, vì vậy người Hà Nhì nói chung đều cấm mọi người vào rừng thiêng. Gạc ma guy Phu Che Xa kể: “Mọi cây khô trong rừng đổ ngổn ngang cũng không một ai được lấy về. Thậm chí khi vào rừng cũng phải đi chân không, không được mang giày, dép... Hằng năm chỉ có ngày cúng Gà ma do, thường là ngày con rồng Lò no của tháng giêng hoặc tháng hai, các thành viên nam giới đại diện các gia đình mới được theo thầy cúng quản rừng “Mí Cù” và người phụ giúp “La chạ” vào rừng thiêng làm lễ cúng thần rừng...”
![]() Một buổi sinh hoạt cộng đồng của người Hà Nhì đen. |
Bên cạnh rừng Gà ma do là khu rừng vui chơi, ca hát “A gờ la do”. Người dân Lao Chải còn gọi là Rừng công viên. Khu rừng này là địa điểm tổ chức lễ hội “Khô zà zà”, lễ hội cầu mùa lớn nhất hằng năm của dân tộc Hà Nhì, hay còn gọi là Tết tháng sáu, khi cây lúa bắt đầu lên đòng, ngô gieo đã lên xanh. Gọi là rừng vui chơi, ca hát, hay rừng công viên, nhưng đây cũng là khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt, cấm tự tiện khai thác, chặt cây....
Còn khu rừng thiêng thứ ba là khu rừng thờ “Mu thu do”, có vị trí thấp hơn, nằm ở vị trí cuối nguồn nước của làng và gần khu vực canh tác. Nữ thần rừng “Mu thu do” là nữ thần phù hộ cho sự sinh sôi, phát triển, sẽ phù hộ cho thôn trại: mùa màng tốt tươi, gia súc phát triển, con cháu trong làng đông đúc.
Một vòng tham quan mấy khu rừng của bản vậy mà cũng hết buổi sáng. Gọi là rừng, song mỗi nơi, lớn nhất cũng chỉ rộng chừng hơn 1ha, còn nhỏ thì chỉ như một chòm cây nhỏ với chưa đầy mươi cây cổ thụ, tất cả đan xen với những thửa ruộng, những nóc nhà giống như một sự quy hoạch vô cùng hài hòa của thiên nhiên. Và đằng sau sự đan xen đầy đồng cảm ấy là vô số những chồi non của cỏ cây, của con người, của văn hóa đang ươm mầm...
Nếu như ví cuộc sống của cộng đồng giống như một cơ thể thì nguồn nước mà những cánh rừng kia đem lại chính là dòng máu để duy trì sự sống đó. Nhưng không chỉ có vậy, rừng Y Tý còn đem lại cho cộng đồng cả những nhan sắc của sự phồn vinh. Lâu nay, những cây thảo quả mọc dưới tán rừng đã trở thành nguồn thu nhập có giá trị cao của người dân các bản Hà Nhì ở các xã Y Tý, Dền Sáng, Sảng Ma Sáo... của huyện Bát Xát. Từ cây thảo quả, những cộng đồng người Mông, Dao, Hà Nhì... đã có của ăn của để và đầu tư cho chất lượng cuộc sống của mình. Và những cánh rừng cũng nhờ thế mà thêm sự bình yên... |
Ghi chép củaNgọc Lương