LTS: Trong thời gian qua, cùng với sự nỗ lực của toàn dân trong việc thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế xã hội, ngành y tế đã có những giải pháp đồng bộ nhằm bình ổn thị trường thuốc, đáp ứng đủ số lượng và chất lượng thuốc phục vụ công tác khám chữa bệnh cho nhân dân. Tuy nhiên, trước những biến động khó lường của thị trường thế giới, nhóm hàng dược phẩm phải chịu áp lực tăng giá rất lớn. Trước thực trạng trên, ngành y tế đã đưa ra những giải pháp nhằm ổn định thị trường dược phẩm 6 tháng cuối năm 2008 tại Công văn số 4586/BYT-QLD. Chúng tôi xin trích đăng công văn này.
Tình hình thị trường dược phẩm 6 tháng đầu năm 2008
Tình hình thị trường thế giới và trong nước
Tình hình giá nhiều mặt hàng thế giới vẫn đứng ở mức cao đặc biệt giá dầu thô liên tục vượt ngưỡng, diễn biến khó lường tăng 40,03% so với đầu năm 2008, giá vàng tăng cao, diễn biến thất thường, những bất ổn về thị trường tài chính, tiền tệ (thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản suy giảm mạnh nhất là tại Mỹ, đồng USD tuy có dấu hiệu hồi phục nhưng vẫn thấp hơn so với ngoại tệ mạnh khác như euro, yên Nhật...), lạm phát gia tăng tại nhiều nơi cùng yếu tố đầu cơ của các quỹ hàng hóa... đã làm cho kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm, các nước đều phải xem xét để giảm chi tiêu tăng trưởng kinh tế.
Tình hình thị trường trong nước: dịch bệnh, thiên tai diễn biến phức tạp như nắng nóng, mưa diễn ra nhiều nơi, hoạt động tài chính và ngân hàng đang đối mặt với những khó khăn và thách thức như thiếu vốn ngoại tệ (USD, EUR) nên các công ty nhập khẩu thuốc phải mua ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại theo giá thỏa thuận, chênh lệch gần 11% so với giá Ngân hàng Nhà nước niêm yết để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu thuốc, lãi vay ngân hàng tăng trên 75% so với đầu năm 2008... Theo thông tin từ Tổng cục Hải quan, giá nguyên liệu sản xuất các mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường thế giới vẫn đứng ở mức cao như: Cephalexin monohydrate compact tăng 35%; amoxycillin trihydrat compact tăng 21,74%; ampicillin trihydrate tăng 24,44%, cefaclor tăng 20%, sulfamethoxazol tăng 24,60%, vitamin B1 tăng 48,91%, vitamin B6 tăng 35,85%, vitamin C tăng 98,76%, paracetamol tăng 75,37%... so với đầu năm 2008.
Tình hình thị trường dược phẩm
Mặc dù 6 tháng đầu năm 2008, mặt hàng dược phẩm Việt Nam bị ảnh hưởng bởi thị trường thế giới qua sự tác động của tỷ giá ngoại tệ, thị trường giá cả tăng cao (chỉ số CPI 6 tháng đầu năm 2008 là 18,44%), được sự quan tâm của Chính phủ, được sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thị trường dược phẩm 6 tháng đầu năm 2008 tương đối ổn định có điều chỉnh tuy nhiên thấp hơn diễn biến thị trường giá cả, không có sự tăng giá đột biến, bất hợp lý và tiếp tục đáp ứng đủ thuốc cho nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh, phòng chống dịch bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm, sốt xuất huyết, thiên tai với chất lượng tốt.
Theo kết quả tại bảng và biểu đồ trên cho thấy, tỷ lệ chỉ số giá nhóm hàng dược phẩm, y tế/CPI năm 2004 là 95,79% và giai đoạn năm (2005-2007) tương đối ổn định duy trì chỉ số nhóm hàng dược phẩm, y tế thấp hơn 66% so với chỉ số CPI. Sự ra đời của Thông tư liên tịch số 11/2007/TTLT-BYT-BTC-BCT của Liên Bộ Y tế - Tài chính - Công thương đã có tác dụng rất lớn trong việc ổn định thị trường dược phẩm cuối năm 2007 và 6 tháng đầu năm 2008, đã đưa chỉ số nhóm hàng dược phẩm, y tế của 6 tháng đầu năm 2008 xuống chỉ bằng 22,19% so với chỉ số CPI.
Kết quả này phù hợp kết quả khảo sát thị trường dược phẩm 6 tháng đầu năm 2008 tại TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng của Hiệp hội sản xuất kinh doanh dược Việt Nam:
- Thuốc nhập khẩu: Có 2,6% số lượng mặt hàng tăng giá trong tổng số 13.927 mặt hàng khảo sát với mức tăng bình quân 9,13% và 0,11% mặt hàng giảm giá với mức giảm trung bình 3,63%.
- Thuốc sản xuất tại Việt Nam: Có 1,26% mặt hàng tăng giá trong tổng số 20.613 mặt hàng khảo sát với mức tăng trung bình 12,86% và 0,21% mặt hàng giảm giá với mức giảm 5,71%.
Trước diễn biến của dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm, ngành dược đã tiến hành dự trữ đầy đủ thuốc và dịch truyền sẵn sàng phục vụ công tác phòng chống dịch tiêu chảy cấp theo phác đồ điều trị của Bộ Y tế: 48.582.275 viên ciprofloxacin 500mg; 30.326.552 viên ofloxacin 200mg; 2.801.430 viên azithromycin 500mg; 5.585.380 viên azithromycin 250mg; 2.700.000 viên levofloxacin 250mg; 38.899.136 viên cloramphenicol 250mg; 67.500 viên norfloflaxin 400mg và 5.044.963 triệu chai dịch truyền glucose 5% và 500ml; 7.003.760 chai dịch truyền NaCl 0,9% và 500ml; 6.161.768 chai ringer lactat 500ml; 150.300 chai dịch truyền NaHCO3 1,4%, 500ml.
Những giải pháp quản lý giá thuốc 6 tháng cuối năm 2008 và những năm tới
Triển khai ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng theo thông báo số 147/TB-VPCP
Thực hiện thông báo số 147/TB-VPCP ngày 23/6/2008 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Chính phủ về điều hành kinh doanh xăng, dầu và một số mặt hàng thiết yếu khác, Tổ công tác liên ngành gồm liên Bộ Y tế - Tài chính - Công thương sẽ tiếp tục xem xét đề nghị điều chỉnh tăng giá của các cơ sở sản xuất, nhập khẩu theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 11/2007/TTLT-BYT-BTC-BCT ngày 31/8/2007 hướng dẫn quản lý nhà nước về giá thuốc dùng cho người theo hướng:
- Ưu tiên xem xét điều chỉnh tăng giá các thuốc chuyên khoa, đặc trị để tránh hiện tượng thiếu thuốc cục bộ phục vụ công tác phòng, chữa bệnh của các cơ sở khám chữa bệnh.
- Ngoài ưu tiên trên, sẽ xem xét điều chỉnh tăng giá một mặt hàng thuốc mà doanh nghiệp sau khi rà soát, thực hiện các giải pháp tiết kiệm chi phí mà giá bán ra vẫn không đủ bù đắp chi phí, không cân đối được thu chi, kinh doanh thua lỗ.
![]() |
Các giải pháp bình ổn thị trường dược phẩm 6 tháng cuối năm 2008 và các năm tới
Để đạt được mục tiêu: (1) Tăng nguồn cung ứng thuốc để bảo đảm cân đối "cung-cầu" hợp lý; (2) ổn định giá thuốc ở mức hợp lý đối với những thuốc thuộc Danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu dùng trong cơ sở khám chữa bệnh; (3) Tập trung quản lý giá thuốc cung ứng cho bệnh viện, thuốc tại các nhà thuốc nằm trong khuôn viên của các cơ sở y tế công lập để có giá bằng hoặc thấp hơn giá thị trường, trong năm 2008 và các năm tới, Bộ Y tế sẽ thực hiện những giải pháp chủ yếu sau để ổn định thị trường dược phẩm:
Tăng nguồn cung ứng thuốc phòng và chữa bệnh cho người - giải pháp cơ bản
Trước mắt:
- Đề nghị cho điều chỉnh giá thuốc trúng thầu năm 2008 phù hợp với mặt bằng chung giá thuốc trên thị trường.
- Tăng cường việc xét duyệt giấy phép nhập khẩu và nhập khẩu song song thuốc nước ngoài để hạn chế độc quyền nâng giá.
- Tăng số lượng doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh thuốc, nguyên liệu làm thuốc, số lượng số đăng ký lưu hành thuốc trong nước và thuốc nhập khẩu.
- Khuyến khích thực hiện việc gia công thuốc để giảm giá thành sản phẩm, giảm chi phí cho người bệnh.
- Đề xuất Thủ tướng Chính phủ sửa đổi và bổ sung cơ chế sử dụng quỹ dự trữ lưu thông thuốc và mở rộng loại hình doanh nghiệp tham gia, mở rộng danh mục thuốc/hoạt chất để tăng cường tính hiệu quả của chủ trương này.
Về lâu dài:
- Xây dựng và trình Chính phủ Chương trình trọng điểm Quốc gia phát triển ngành công nghiệp dược Việt Nam giai đoạn đến 2015 và tầm nhìn đến năm 2020: để phát triển sản xuất nguyên liệu hóa dược để giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập; tăng tỷ trọng thuốc generic sản xuất trong nước có tần suất sử dụng lớn trên thị trường phải nhập ngoại.
Tăng cường quản lý nhà thuốc trong các cơ sở y tế công lập bằng việc ban hành quy chế quản lý nhà thuốc bệnh viện để bảo đảm quản lý nguồn thuốc đầu vào có nguồn gốc rõ ràng với giá cả thấp hơn giá thị trường.
Đẩy mạnh công tác đấu thầu thuốc theo dướng dẫn của Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 10/8/2007 hướng dẫn đấu thầu mua thuốc tại các cơ sở y tế công lập.
- Sau khi công bố giá thuốc trúng thầu năm 2007, sẽ công khai, minh bạch giá thuốc trúng thầu năm 2008.
- Khuyến khích các Sở Y tế nghiên cứu áp dụng hình thức đấu thầu tập trung để xem xét tính khả thi của kế hoạch thí điểm tổ chức đấu thầu quốc gia.
Tăng cường triển khai Thông tư liên tịch số 11/2007/TTLT-BYT-BTC-BCT ngày 31/8/2007 về việc hướng dẫn quản lý nhà nước về giá thuốc dùng cho người:
- Tăng cường hoạt động của Tổ công tác liên ngành tại trung ương và địa phương để xem xét kịp thời việc kê khai, kê khai lại giá thuốc của cơ sở sản xuất, nhập khẩu thuốc phù hợp mặt bằng chung giá thuốc cả nước và diễn biến thị trường.
- Tăng cường quản lý giá thuốc nhập khẩu (giá CIF) phù hợp với mặt bằng chung giá thuốc của các nước trong khu vực:
- Tăng cường kênh thông tin theo dõi tình hình biến động giá thuốc trên thị trường.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về giá thuốc.
Tiếp tục công khai công tác quản lý nhà nước về giá thuốc với cơ quan truyền thông.
- Công khai giá CIF của các thuốc nhập khẩu vào Việt Nam.
- Tuyên truyền ngành dược Việt Nam đã tiến hành 12 năm bảo đảm chất lượng toàn diện (GPs) để người dân, cơ sở kinh doanh thấy được lợi ích việc triển khai GPs và thay đổi nhận thức của dược sĩ trong dịch vụ chăm sóc dược và chất lượng thuốc trong nước.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp quản lý giá thuốc đã đề ra trong năm 2008 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời tăng cường phân cấp mạnh về quản lý nhà nước đối với giá thuốc cho các sở y tế để bảo đảm tính đồng bộ và khả thi từ trung ương đến địa phương.
Quy hoạch sắp xếp, phát triển mạng lưới lưu thông cung ứng thuốc - Giải pháp có tính chất lâu dài và bền vững để tiến tới quản lý giá thuốc bán lẻ.
- Đẩy mạnh triển khai việc sắp xếp lại hệ thống lưu thông phân phối và cung ứng thuốc để giảm thiểu tối đa các tầng nấc phân phối trung gian thông qua việc ban hành quy chế hoạt động chuỗi nhà thuốc doanh nghiệp đạt nguyên tắc, tiêu chuẩn GPP và thúc đẩy việc xây dựng nhà thuốc đạt GPP theo đúng lộ trình Bộ Y tế đề ra.
- Xây dựng và trình Chính phủ kế hoạch mục tiêu quốc gia phát triển và tổ chức sắp xếp mạng lưới lưu thông, phân phối và cung ứng thuốc của Việt Nam giai đoạn đến 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Nghiêm túc triển khai chất lượng thuốc toàn diện (GPs) - GMP, GLP, GSP, GDP, GPP theo đúng lộ trình đã đề ra.
Các giải pháp giảm nhập siêu và bình ổn thị trường dược phẩm trên thực hiện hai mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của ngành dược: (1) Mục tiêu y tế, xã hội: cung cấp đủ thuốc có chất lượng để phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân, phòng chống dịch bệnh và thiên tai với giá cả hợp lý.
(2) Mục tiêu kinh tế: bảo đảm ngành dược luôn tăng trưởng cao trên 16%.