Với một bệnh nhân có bệnh nền phức tạp là suy tim và tiền sử nhồi máu cơ tim, việc trải qua một cuộc phẫu thuật vốn đã là một thách thức y khoa rất lớn. Trong giai đoạn hậu phẫu, người bệnh có thể phải đối diện với những nguy cơ tiềm ẩn cũng như các biến chứng.
Suy tim và nhồi máu cơ tim sau khi phẫu thuật nguy hiểm thế nào?
Đầu tiên, mỗi người cần phải biết những yếu tố nguy cơ tim mạch của mình đang mắc phải là gì? Người bệnh cần đi khám bệnh định kỳ để bác sĩ thăm khám và dựa trên các thang điểm đánh giá đo lường tỉ lệ biến cố. Nếu đã được chẩn đoán mắc bệnh tim mạch, điều quan trọng là phải xác định rõ đó là những bệnh lý gì, liệu các bệnh đó đã được kiểm soát tốt hay chưa, có biến chứng kèm theo không, và nguy cơ biến cố có thể liên quan đến cơ quan nào.
Trong số các bệnh tim mạch, suy tim và nhồi máu cơ tim được xem là những tình trạng nặng nề nhất, với nguy cơ biến cố cực kỳ phức tạp và đột ngột. Đặc biệt, ở bệnh nhân suy tim hoặc có nhồi máu cơ tim cũ thì phẫu thuật/can thiệp trên nền người bệnh này sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ, từ suy tim mất bù cho tới rối loạn nhịp tim nguy hiểm gây đột tử.

Khi có các dấu hiệu bất thường sau phẫu thuật tim mạch, người bệnh cần liên hệ với bác sĩ điều trị để được tư vấn kịp thời. Ảnh minh họa.
Nhưng nếu không can thiệp, bệnh nhân có thể phải đối mặt với tình trạng suy giảm chức năng tim nhanh chóng, dẫn đến chất lượng cuộc sống thấp mà vẫn có những nguy cơ tử vong. Ngược lại, sau khi can thiệp, dù cơ hội cải thiện tình trạng bệnh có thể mở ra, nhưng nguy cơ biến chứng sau mổ vẫn luôn thường trực, đòi hỏi sự theo dõi và quản lý chặt chẽ.
Khi đã được các bác sĩ chẩn đoán suy tim và nhồi máu cơ tim, người bệnh đã phải đối mặt với những biến cố tim mạch nguy hiểm, chưa kể đến các vấn đề về phẫu thuật hay can thiệp. Khi đã được các chuyên gia tim mạch chỉ định thì bệnh nhân cần được đánh giá kỹ lưỡng lợi ích và nguy cơ khi quyết định can thiệp tim mạch bằng các thang điểm chuyên biệt, nâng cao thể trạng và chuẩn bị trạng thái tốt nhất của cơ thể. Trong các trường hợp cần can thiệp cấp cứu, thì thời gian là vàng. Quan trọng nhất là cứu được chức năng tim, cứu được tính mạng người bệnh.
Sau can thiệp, người bệnh cần tuân thủ chặt chẽ theo đơn thuốc, hướng dẫn của bác sĩ, chế độ dinh dưỡng, tập luyện được bác sĩ tư vấn, phục hồi chức năng tim sau can thiệp, phẫu thuật và tái khám định kỳ.

Suy tim và nhồi máu cơ tim được xem là những tình trạng nặng nề nhất, với nguy cơ biến cố cực kỳ phức tạp và đột ngột. Ảnh minh họa.
Dấu hiệu cảnh báo bất thường sau phẫu thuật tim mạch
Những dấu hiệu có thể ảnh hưởng đến biến cố sau can thiệp/ phẫu thuật bạn cần biết:
- Đau tức ngực (nhất là đau mới xuất hiện hoặc nặng dần): Có thể báo hiệu nhồi máu cơ tim tái phát hoặc tắc stent.
- Khó thở tăng dần, thở nhanh, khạc bọt hồng: Dấu hiệu suy tim mất bù hoặc phù phổi.
- Đánh trống ngực, tim đập nhanh hoặc loạn nhịp: Nguy cơ rối loạn nhịp tim nặng.
- Phù chân, phù bụng, tăng cân nhanh (≥2kg trong 2–3 ngày): Biểu hiện ứ dịch lòng mạch, nghi ngờ suy tim cấp.
- Chóng mặt, choáng váng hoặc ngất: Cảnh báo tụt huyết áp, rối loạn nhịp nguy hiểm.
- Yếu liệt, nói khó, méo miệng: Có thể là dấu hiệu đột quỵ.
Khi có các dấu hiệu như vậy, cần liên hệ ngay với bác sĩ đang theo dõi bệnh lý cho mình. Tất cả các bệnh nhân đều phải lưu trữ rất cẩn thận các tài liệu điều trị bệnh để các bác sĩ có thể xử lý nhanh nhất khi có biến cố xảy ra.
Đột quỵ và đột tử có giống nhau không?
Một trong những biến cố sau phẫu thuật tim mạch người bệnh có thể gặp đó là đột tử. Cần phải xác định rõ, đột quỵ và đột tử đều là các biến cố nghiêm trọng trong bệnh lý tim mạch và nguy cơ tử vong rất cao. Đột quỵ thường được nhắc đến trên truyền thông hay còn gọi là "tai biến mạch máu não". Đây là tình trạng não bộ bị tổn thương do không được cung cấp máu lên nuôi dưỡng kịp thời.

Một trong những biến cố sau phẫu thuật tim mạch người bệnh có thể gặp đó là đột tử. Ảnh minh họa.
Cách sơ cứu khi bị đột quỵ
Khi bị đột quỵ, bệnh nhân thường còn thở và còn mạch, nhưng xuất hiện đột ngột các triệu chứng thần kinh như méo miệng, yếu liệt một bên cơ thể, nói khó hoặc không nói được, mất thăng bằng, nhìn mờ hoặc mất thị lực.
Lúc này cần đưa bệnh nhân đến bệnh viện ngay để các bác sĩ đánh giá và có thể can thiệp lấy huyết khối kịp thời trong thời gian vàng. Tuy nhiên hiện nay mới chỉ có các bệnh viện lớn có khả năng thực hiện thủ thuật này.
Đột tử (ngừng tim đột ngột)
Thường diễn biến đột ngột, bất ngờ khi người bệnh mất ý thức hoàn toàn, ngừng thở hoặc thở ngáp cá, không bắt được mạch cảnh, da tái nhợt. Đây là tình huống cấp cứu khẩn cấp, cần được phát hiện, và thực hiện cấp cứu ngừng tuần hoàn (CPR), gọi cấp cứu 115 ngay và nhanh chóng đưa người bệnh đến bệnh viện gần nhất. Nếu không được phát hiện kịp thời và cấp cứu, người bệnh có thể tử vong sau vài phút.
Đối với đột tử do tim mạch: Cần phải theo dõi bệnh lý nền liên tục, điều trị và dự phòng biến cố liên quan đến bệnh mạch vành, suy tim, rối loạn nhịp; tuân thủ đơn thuốc; báo bác sĩ nếu có triệu chứng như đau ngực, hồi hộp, khó thở bất thường.
Để phòng ngừa đột quỵ não và đột tử do tim mọi người cần lưu ý những điều sau:
- Cần trang bị kiến thức về y học thường thức các bệnh lý thường gặp trong xã hội như: Tăng huyết áp, đái tháo đường, mỡ máu.
- Đánh giá được các yếu tố nguy cơ bệnh lý của bản thân mình như: Hút thuốc, rượu bia, béo phì, vận động không đều đặn, chế độ ăn không lành mạnh…
- Nếu có bệnh lý nền, chúng ta phải kiểm soát tốt các bệnh lý này, hiểu về các mốc mục tiêu an toàn, tự theo dõi tại nhà.
- Chúng ta cần đi khám bệnh định kỳ, tuân thủ đơn thuốc của bác sĩ, cân nhắc các phương pháp can thiệp dự phòng khi bác sĩ tư vấn.
- Đào tạo cấp cứu ngừng tuần hoàn cơ bản cho gia đình người bị mắc bệnh lý tim mạch.