1. HIV làm tăng nguy cơ biến chứng như thế nào?
Bản thân virus HIV lây nhiễm vào tế bào của hệ thống miễn dịch quan trọng (gọi là tế bào CD4), không gây ra nhiều triệu chứng đe dọa tính mạng. Điều khiến nó trở nên nguy hiểm là cuối cùng virus sẽ phá hủy các tế bào CD4 (còn được gọi là tế bào T, tế bào bạch cầu rất quan trọng đối với hệ thống miễn dịch khỏe mạnh), làm suy yếu hệ thống miễn dịch.
Khi hệ thống miễn dịch suy yếu khiến cơ thể dễ bị mắc các bệnh và nhiễm trùng cơ hội chết người - một dấu hiệu của giai đoạn AIDS (giai đoạn cuối của HIV).
2. Nhiễm trùng cơ hội liên quan đến HIV
Những người nhiễm HIV/AIDS tuân thủ điều trị kém, có nguy cơ cao bị nhiễm nhiều loại virus và vi khuẩn khác nhau, bao gồm cả nấm và ký sinh trùng...
Những bệnh nhiễm trùng cơ hội (NTCH) này là những dạng bệnh, thường không ảnh hưởng đến những người có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, có khả năng chống lại chúng.
Ngày nay, nhiễm trùng cơ hội ít phổ biến hơn ở nhóm dân số này so với trước đây, do điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV) hiệu quả, giúp duy trì hệ thống miễn dịch bằng cách giảm lượng HIV trong cơ thể.
Số lượng tế bào CD4 bình thường nằm trong khoảng từ 500 đến 1.200. Khi số lượng CD4 giảm xuống dưới 200 tế bào/mỗi milimét khối máu (CD4 ≤ 200 tế bào/mm3), bạn có nguy cơ mắc nhiễm trùng cơ hội cao nhất. Một số nhiễm trùng cơ hội có thể tồn tại khi số lượng CD4 dưới 500.
Viêm phổi do vi khuẩn S.pneumoniae gây ra là một bệnh nhiễm trùng cơ hội phổ biến ảnh hưởng đến người nhiễm HIV hoặc AIDS.
Các bệnh nhiễm trùng cơ hội phổ biến nhất ở người nhiễm HIV hoặc AIDS bao gồm:
- Nhiễm trùng nấm: Nấm candida (trong trường hợp nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến thực quản, khí quản, phế quản và các mô phổi sâu hơn), nấm coccidioides (có thể dẫn đến viêm phổi), nấm cryptococcus (ảnh hưởng đầu tiên đến phổi dẫn đến viêm phổi), não (gây phù não) trước khi có khả năng lây lan sang da, xương và đường tiết niệu.
- Nhiễm virus Herpes simplex: Có thể gây phồng rộp, đau...
- Nhiễm trùng phổi do nấm, vi khuẩn...
- Bệnh lao…
Ngoài liệu pháp thuốc kháng virus (ARV), bác sĩ có thể đưa ra một số biện pháp giúp ngăn ngừa bệnh nhiễm trùng cơ hội. Các biện pháp này có thể bao gồm: Dùng một số loại thuốc và chủng ngừa nhất định, tránh thực phẩm nấu chưa chín hoặc chưa tiệt trùng, nhận biết những loại vi trùng mà bạn có thể tiếp xúc và ngăn ngừa tiếp xúc với các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác…
3. Biến chứng thần kinh liên quan đến HIV/AIDS
HIV dường như không xâm chiếm các tế bào thần kinh, nhưng nó lây nhiễm vào các tế bào thần kinh đệm (có chức năng bảo vệ và hỗ trợ các dây thần kinh).
Do tình trạng viêm liên quan đến virus gây tổn thương hệ thần kinh trung ương nên những người nhiễm HIV hoặc AIDS giai đoạn nặng, có thể gặp nhiều triệu chứng khác nhau, chẳng hạn như lú lẫn, hay quên, các vấn đề về hành vi, đau đầu, suy nhược và tê ở tứ chi.
Các biến chứng về hệ thần kinh trung ương do virus hoặc do thuốc dùng để điều trị virus có thể bao gồm:
- Đau, co giật
- Bệnh zona
- Vấn đề về tủy sống
- Vấn đề phối hợp và rối loạn dáng đi
- Rối loạn nuốt
- Rối loạn lo âu
- Trầm cảm
- Sốt
- Mất thị lực
- Đột quỵ
- Hôn mê...
Nhiễm trùng cơ hội ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (CNS) bao gồm: Cryptococcus, bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển, cytomegalovirus có thể gây viêm não và treponema pallidum gây bệnh giang mai thần kinh...
4. Các biến chứng khác liên quan đến HIV/AIDS
Những người nhiễm HIV/AIDS cũng có thể gặp phải:
- U lympho hoặc ung thư hạch bạch huyết
- Sarcoma kaposi - một loại ung thư mạch máu do virus herpes liên quan đến sarcoma kaposi (KSHV), còn được gọi là herpesvirus 8 ở người (HHV-8)
- Ung thư cổ tử cung xâm lấn
- Bệnh thận liên quan đến HIV
- Hội chứng suy mòn do HIV (được định nghĩa là tình trạng sụt cân hơn 10% trọng lượng cơ thể một cách không chủ ý, trong khi bị tiêu chảy, suy nhược và sốt trong hơn 30 ngày).
5. Tác dụng phụ của thuốc điều trị HIV
Mặc dù ARV đã làm giảm các bệnh nhiễm trùng cơ hội và các tình trạng nêu trên nhưng bản thân thuốc điều trị HIV có thể gây ra các biến chứng hoặc tác dụng phụ. Những triệu chứng này khác nhau ở mỗi người và phụ thuộc vào chế độ điều trị, nhưng hầu hết các tác dụng phụ đều có thể kiểm soát được.
Theo thời gian, bệnh đái tháo đường, cholesterol cao, các vấn đề về chức năng gan - thận và chứng loãng xương… trong một số trường hợp có thể xảy ra khi sử dụng thuốc điều trị HIV.
Nhìn chung, tác dụng phụ của thuốc ARV hiện nay đã ít nghiêm trọng hơn nhiều so với trước đây. Người nhiễm HIV có nhiều lựa chọn hơn và lợi ích của việc điều trị vượt xa nguy cơ tác dụng phụ.
Nếu bạn gặp phải tác dụng phụ, điều quan trọng là phải thông báo với bác sĩ điều trị để có cách khắc phục, xử lý thích hợp.