Lứa tuổi tiểu học là giai đoạn nền tảng cho sức khỏe và trí tuệ
ThS.BS Nguyễn Văn Tiến – Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết, lâu nay, cha mẹ và cộng đồng thường quan tâm nhiều đến trẻ dưới 5 tuổi vì các em còn nhỏ, cần sự chăm sóc đặc biệt. Tuy nhiên, ít ai để ý rằng lứa tuổi tiểu học cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong quá trình phát triển. Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu bước vào con đường học tập, hình thành thói quen sinh hoạt, dinh dưỡng, có trẻ còn bước vào giai đoạn tiền dậy thì – thời điểm cơ thể tăng trưởng mạnh cả về thể chất và trí tuệ.

Lứa tuổi tiểu học là giai đoạn nền tảng cho sức khỏe và trí tuệ.
Hiểu đúng nhu cầu của trẻ và xây dựng chế độ ăn hợp lý sẽ giúp trẻ phát huy tối đa tiềm năng, phát triển toàn diện về tầm vóc, sức khỏe và khả năng học tập.
Nhu cầu năng lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu trong khẩu phần của trẻ. Khi đảm bảo đủ năng lượng, trẻ có thể phát triển thể lực tốt và duy trì sự tập trung trong học tập. Nếu năng lượng cung cấp thiếu hoặc thừa trong thời gian dài đều gây ra hậu quả – từ suy dinh dưỡng đến thừa cân, béo phì.
Thực phẩm là nguồn năng lượng chính cho cơ thể, bao gồm ba nhóm sinh năng lượng là chất đạm, chất béo và chất đường bột. Theo "Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam" do Bộ Y tế ban hành, trẻ em tiểu học cần được cung cấp năng lượng tương ứng với độ tuổi và giới tính.
Trẻ nam: 6–7 tuổi cần 1.570 Kcal/ngày; 8–9 tuổi cần 1.820 Kcal; 10–11 tuổi cần khoảng 2.150 Kcal/ngày.
Trẻ nữ: 6–7 tuổi cần 1.460 Kcal/ngày; 8–9 tuổi cần 1.730 Kcal; 10–11 tuổi cần 1.980 Kcal/ngày.
Bốn nhóm thực phẩm thiết yếu trong bữa ăn của trẻ
ThS.BS Nguyễn Văn Tiến cho biết, một bữa ăn học đường đầy đủ và hợp lý cần đảm bảo bốn nhóm thực phẩm chính: chất đạm, chất béo, đường bột, vitamin và khoáng chất. Tùy theo tuổi, giới tính và mức độ vận động, khẩu phần ăn cần được điều chỉnh linh hoạt để đáp ứng đúng nhu cầu của từng trẻ.
Với học sinh tiểu học, chất đạm (protein) đóng vai trò quan trọng tham gia vào thành phần cấu tạo nên tế bào, là thành phần quan trọng của các hormone, các enzyme, tham gia vào sản xuất kháng thể. Protein cũng tham gia vào hoạt động chuyển hóa, duy trì cân bằng dịch thể. Ngoài ra, protein còn có vai trò quan trọng trong vận chuyển các chất dinh dưỡng qua thành ruột vào máu và từ máu đến các mô của cơ thể và qua màng tế bào. Protein có nhiều trong thịt, cá, sữa, trứng, đậu đỗ, lạc,…Nhu cầu protein thay đổi tùy thuộc vào lứa tuổi, trọng lượng, giới tính của trẻ. Năng lượng do protein cung cấp từ 13-20% nhu cầu năng lượng của cơ thể. Trong đó, tỷ lệ giữa protein động vật/protein tổng số nên đạt ≥ 50% (với trẻ từ 6 – 9 tuổi) và tỷ lệ này nên đạt ≥ 35% (với trẻ từ 10 - 11 tuổi).

Một bữa ăn học đường đầy đủ và hợp lý cần đảm bảo bốn nhóm thực phẩm chính: chất đạm, chất béo, đường bột, vitamin và khoáng chất.
Chất béo hay còn gọi là lipid trong cơ thể đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc màng tế bào và dự trữ trong các mô như nguồn dự trữ năng lượng của cơ thể. Lipid là dung môi để hòa tan các vitamin tan trong chất béo, mặt khác lipid cũng là thành phần cung cấp năng lượng quan trọng trong khẩu phần. Nguồn cung cấp lipid là mỡ, dầu và các loại hạt như lạc, vừng, hạt điều,…Theo nhu cầu khuyến nghị cho người Việt Nam, đối với trẻ em tiểu học, năng lượng do lipid cung cấp cần đạt 20 – 30% nhu cầu năng lượng của cơ thể, trong đó lipid nguồn động vật/lipid tổng số chiếm khoảng 30-50%, acid béo no không vượt quá 11% năng lượng khẩu phần.
Glucid (chất đường bột) cung cấp năng lượng cho cơ thể. Ngoài vai trò sinh năng lượng, glucid có vai trò tạo hình, nguồn cung cấp glucid chủ yếu cho khẩu phần là từ gạo, bún, miến, khoai, củ,…Với học sinh tiểu học, năng lượng do glucid cung cấp cần đạt 50-60% nhu cầu năng lượng của cơ thể.
Vitamin và chất khoáng tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ thể những không thể thiếu. Canxi giúp cơ thể hình thành hệ xương và răng vững chắc. Tất cả các quá trình chuyển hóa trong cơ thể đều cần canxi. Với lứa tuổi tiểu học từ 6- 7 tuổi nhu cầu canxi là 650 mg/ngày, 8 – 9 tuổi là 700 mg/ngày, 10 – 11 tuổi là 1000 mg/ngày, tỷ lệ canxi/phospho đạt mức tốt nhất là 1-1,5. Bên cạnh đó, sắt, kẽm góp phần thúc đẩy tạo máu, tăng trưởng cũng như tăng sức đề kháng của trẻ. Vitamin A, C và nhóm B ví như người gác cổng bảo vệ sức khỏe cho trẻ. Thiếu các vi chất trên khiến da, niêm mạc khô dẫn đến dễ nhiễm khuẩn, mắc bệnh khô mắt,…Những vitamin này có nhiều trong hoa quả tươi, rau xanh, củ quả hay phủ tạng động vật, sữa, phô mai và trứng. Điều đó chứng tỏ việc xây dựng khẩu phần ăn phù hợp với độ tuổi của trẻ là không quá khó. Do vậy, cha mẹ, nhà trường cần cung cấp cho trẻ bữa ăn đủ dinh dưỡng, hợp lý phù hợp với nhu cầu của cơ thể.
Bữa ăn học đường – trách nhiệm của gia đình và nhà trường
Một bữa ăn học đường không chỉ là "cho trẻ ăn no" mà phải "cho trẻ ăn đúng và đủ". Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và đơn vị cung cấp suất ăn có vai trò quyết định trong việc bảo đảm khẩu phần hợp lý, an toàn.
Tại trường học, việc tổ chức bữa ăn bán trú cần được thực hiện khoa học: chia suất theo lứa tuổi, đảm bảo tỷ lệ các nhóm thực phẩm đúng khuyến nghị, thay đổi món ăn hàng ngày để tránh nhàm chán. Ở nhà, cha mẹ nên duy trì thói quen ăn sáng, bổ sung sữa, hoa quả, đồng thời hạn chế thức ăn nhanh và đồ uống nhiều đường.

Một bữa ăn học đường không chỉ là "cho trẻ ăn no" mà phải "cho trẻ ăn đúng và đủ".
Ngoài ra, trẻ cần được khuyến khích vận động thường xuyên, ít nhất 60 phút mỗi ngày để tiêu hao năng lượng hợp lý, phát triển xương cơ và phòng tránh thừa cân.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, trẻ có chế độ dinh dưỡng hợp lý thường học tập tốt hơn, có trí nhớ, sự tập trung và thể lực vượt trội so với trẻ ăn uống thiếu cân đối. Vì vậy, việc quan tâm đến dinh dưỡng học đường chính là chăm lo cho tương lai đất nước.
Theo ThS.BS Nguyễn Văn Tiến, việc xây dựng khẩu phần ăn phù hợp với độ tuổi không hề khó nếu cha mẹ, nhà trường hiểu đúng và cùng hành động. Khi trẻ được ăn đúng cách, đủ chất, chúng không chỉ khỏe mạnh, cao lớn mà còn tự tin, năng động và học tập hiệu quả hơn.


