Sau này, mãi ba mươi lăm năm sau, tôi mới tìm lại được Đại đội trưởng Phan Ngọc Sơn của mình, cũng là người giới thiệu tôi vào Đảng, hiện đang công tác ở Hội Chữ thập đỏ Cần Thơ. Niềm vui chan nước mắt, tôi vẫn ngập ngừng khiêm nhường chào thủ trưởng mà tưởng như đang đứng giữa hàng quân ba mươi lăm năm về trước. Người đại đội trưởng năm nào nay tóc mây mướt gió, tâm hồn nghệ sĩ, thấp thoáng bóng dáng của tài tử hào hoa, sống chan hòa vào cỏ cây hoa trái của bình dị đời thường. Chúng tôi đều trở về từ Thành cổ Quảng Trị, mỗi người một vị trí khác nhau nhưng cùng có một điểm chung, đó là tuổi tác và thời gian không thể xóa nhòa được dư âm hào sảng của năm tháng chiến trường gắn bó bên nhau, vào sinh ra tử, với tâm hồn trong sáng, vô tư và tình yêu cuộc sống thiết tha của một thời Sinh viên - Chiến sĩ.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp các cựu chiến binh tiêu biểu chiến đấu tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972. (Ảnh chụp tại Phủ Chủ tịch ngày 27/6/2012). |
Tháng 8/1972, đang ở chiến trường Quảng Trị thì biết tin Thạc đã hy sinh, điều tôi nhớ đầu tiên và nhớ mãi sau này là người bạn tài hoa - cây bạch đàn đã ra đi. Chiến tranh thật khốc liệt, chẳng biết thế nào, mọi chuyện đều có thể xảy ra và chỉ có thể lý giải là do số mệnh. Như trường hợp của tôi, tôi vẫn nhớ mãi một kỉ niệm, khi tôi còn là tân binh của Trung đoàn 18 chiến đấu ở phía Nam Thành cổ Quảng Trị. Một lần lên trung đoàn báo cáo tình hình và lĩnh quân trang bổ sung, để vào được bên trong trung đoàn bộ, tôi phải len lỏi theo đường hào từ bờ sông Lam Thủy. Xong việc ra về thì Chủ nhiệm Hậu cần Ngô Thản giật giọng gọi: “Triệu! Vào uống nước!” và được Chủ nhiệm “chiêu đãi” một điếu thuốc Tam Đảo. Vừa ngồi được một lúc thì B52 ập đến rải thảm. Đoạn đường mà lẽ ra tôi phải trở về đơn vị đã bị bom B52 cày nát, không còn một cành cây, ngọn cỏ. Nếu như không ngồi lại hút điếu thuốc Tam Đảo thì chắc chắn, giờ đây tôi cũng đã mãi mãi nằm lại bên bờ sông Lam Thủy.
Mãi sau này, khi còn là Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội, tôi được biết gia đình Thạc đã đưa bạn về quê, yên nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Từ Liêm. Nhớ lại ước nguyện cuối cùng của Thạc, vào một sáng mùa hè năm 2005, sau ba mươi tư năm, kể từ ngày những sinh viên trẻ măng rời Hà Nội vào chiến trường Quảng Trị khói lửa năm ấy, tôi mới có dịp đến trồng bên mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hai cây bạch đàn - loài cây mà Thạc yêu thích, được nhắc tới nhiều lần trong những trang nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi”. Tôi đã thực hiện được lời tâm nguyện của bạn “Khi anh nằm xuống, bạch đàn hãy rủ lá và ru cho anh ngủ...”.
Là đồng đội nhập ngũ cùng ngày với Nguyễn Văn Thạc, nhưng may mắn hơn, tôi đã có cơ hội đi tiếp vào “chảo lửa” Quảng Trị, có mặt trong 81 ngày đêm khốc liệt và hùng tráng của Thành cổ trong mùa hè đỏ lửa năm 1972. Sau nhiều lần may mắn vượt qua cái chết, trong một đợt pháo kích và không kích dữ dội của địch vào đội hình đơn vị bên bờ sông Lai Phước, tôi đã bị thương ở ổ bụng và được những đồng đội chuyển về tuyến sau.
Hàng năm, cứ đến ngày 6/9, ngày lớp sinh viên trẻ rời giảng đường đại học vào tuyến lửa, các đồng đội cũ lại gặp nhau để ôn lại những kỷ niệm chiến trường, hàn gắn điều gì đó cho đồng đội, cho những người đã hy sinh. Chất lính trong sáng, vô tư, táo bạo, quyết liệt, kiên định và sâu nặng nghĩa tình luôn toát lên trong tâm thức và hành động của mỗi người. Vậy đó, chính lớp Chiến sĩ - Sinh viên ấy đã làm nên trang sử hào hoa trong khúc ca bi tráng của Thành cổ Quảng Trị. Đúng như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, khi nói về những người lính Thành cổ đã viết: “Những người chết không phải vì để trở thành anh hùng mà chính là để đằng sau họ những người khác được tiếp tục sống trong tự do và hòa bình, chết cho nhân loại sống còn và thức tỉnh”.
Cho đến nay, chưa có con số thống kê chính xác bao nhiêu người lính đã nằm lại ở Thành cổ Quảng Trị. Có tài liệu ghi hơn một vạn, có tài liệu ghi hơn một vạn rưỡi, nhưng tại nghĩa trang xã Hải Phú nơi qui tập của sư đoàn tôi (F325) chỉ qui tập được chưa đầy một nghìn nấm mộ, hầu hết là vô danh. Biết bao chiến sĩ trẻ vừa rời giảng đường đại học đã mãi mãi nằm lại trong đống đổ nát của Thành cổ và cả dưới dòng sông Thạch Hãn. Máu xương của hơn một vạn người lính đã nằm xuống Thành cổ ngày ấy đã góp phần vào thắng lợi của Hiệp định Paris năm 1973 và Đại thắng mùa xuân năm 1975. Nhiều người trong lớp sinh viên vào tuyến lửa năm ấy may mắn được trở về cứ mãi đau đáu với nghĩa tình đồng đội, lao vào cuộc chiến đấu mới trong công cuộc xây dựng đất nước, gánh cả phần việc của những đồng đội đã hy sinh. Biết bao người lính cùng thế hệ ấy đã không về. Nếu không có chiến tranh, hẳn họ cũng đã là những hiền tài của đất nước.
Và cũng chính trong những giờ phút đối mặt với cái chết, đối mặt với thử thách khốc liệt ấy, tôi cùng đồng đội Trương Xuân Hương đã vinh dự được kết nạp Đảng tại mặt trận của 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ (ngày 25/8/1972). Đó là hai chiến sĩ tiêu biểu của Đại đội 24 Trung đoàn 18, được chọn lựa sau thử thách một chiến dịch ác liệt. Lễ kết nạp Đảng tổ chức ngay trong một căn hầm dã chiến ở thôn An Khê, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Giờ phút thiêng liêng trước Đảng kỳ năm đó mãi in sâu trong tâm trí tôi: “Đồng đội ơi, sao đồng đội không về/ Vinh dự thế mà lòng son máu ứa/ Trên nóc hầm vẫn gầm gào đạn nổ/ Ôm súng xông lên sau phút thiêng này”, một nhà thơ đã viết như thế.
*
* *
Đã 40 năm trôi qua, trang sử bi hùng của những ngày đêm máu lửa ở Thành cổ Quảng Trị vẫn trào dậy trong ký ức của những Cựu chiến binh - Người lính - Sinh viên hào hoa mà trung kiên năm ấy. Những dòng hồi ức vẫn nóng hổi và tràn đầy trong ký ức của người lính binh nhì năm xưa mà chúng tôi có dịp ghi lại trong buổi gặp mặt nhân Kỷ niệm 40 năm giải phóng Quảng Trị... Kỷ niệm của một thời hoa lửa ấy được người cựu chiến binh luôn trân trọng, gìn giữ và tự hào. Gặp ông - nguyên Chủ tịch Thành phố Hà Nội, vị Bộ trưởng Y tế của một thời, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Triệu - người ta cảm nhận không khí ấm cúng gần gũi và thân thiết. Có lẽ bởi nụ cười hiền lành luôn thường trực trên khuôn mặt của ông. Người ta không thấy cái vẻ quan cách, đường bệ khi tiếp chuyện ông. Ông cười thật tươi khi ôn lại kỉ niệm chiến trường với chúng tôi. Những người lính năm xưa đầu đã bạc trắng, say sưa đọc lại cho nhau nghe những bài thơ một thời luôn nằm trong hành trang người lính và trở thành nguồn động viên tinh thần vô giá đối với họ:
(Màu tím hoa sim – Hữu Loan)
Hết nhiệm kỳ rời ghế Bộ trưởng, ông thanh thản như “người nông dân cày xong thửa ruộng”. Thanh thản bởi ông đã làm hết trọng trách trên từng cương vị công tác của mình. Dù việc này việc kia, chỗ này chỗ khác còn chưa được trọn vẹn, như ý... nhưng ông đã sống xứng đáng với tư cách của người lính năm xưa, xứng đáng với bạn bè và đồng đội của ông - những người đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, hiến dâng tuổi thanh xuân đẹp nhất cho đất nước.
Nguyễn Quốc Triệu (Cựu Chiến binh Quảng Trị)