Không khí sáng tác văn học cởi mở là điều dễ thấy nhất trong 15 năm qua. Có lẽ chưa có thời điểm nào số lượng tác giả, tác phẩm đông và nhiều như vậy. Đây cũng là quãng thời gian ở Việt Nam có nhiều trường phái, trào lưu, phương pháp sáng tác văn học được thực hành nhất từ trước tới nay. Hai đặc điểm trên hầu như xuyên suốt trong 15 năm qua và nó chưa có dấu hiệu dừng lại.
Không khí sáng tác văn học sôi động
Trong 15 năm qua, trình độ cảm thụ văn chương của người viết, người đọc tăng lên. Hình như người ta đã vượt qua được những ngộ nhận, ấu trĩ trong nhận thức về sáng tạo văn học trước đây để làm ra những tác phẩm gần với đời hơn. Cái chân-thiện-mỹ không bị trình bày theo kiểu khô cứng, hẹp hòi đầy tính giáo huấn nữa. Quá khứ và hiện tại cung cấp phôi liệu cho nhà văn; từ sự bộn bề ngang dọc của các “vỉa quặng” này, nhiều tác phẩm sinh ra mang hơi thở cuộc sống nóng hổi. Tuy mức độ thành công khác nhau và không nhiều lắm nhưng chúng ta cũng có thể kể tên một số tác giả, tác phẩm như thế.
Về văn xuôi, nối tiếp tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh...thời kỳ bắt đầu đổi mới, chúng ta có thêm các tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Lính trận của Trung Trung Đỉnh, Minh sư của Thái Bá Lợi, Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức..., đặc biệt là tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh và truyện vừa Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Theo cảm nhận của tôi thì Hồ Quý Ly và Cánh đồng bất tận là hai tác phẩm hay nhất của văn xuôi nước ta trong mười lăm năm qua.
Thơ nhiều ồn ào tranh cãi nhưng ít thành tựu. 15 năm qua, rất ít tập thơ thực sự chinh phục được bạn đọc ở chất lượng nghệ thuật cao. Những tập thơ được giải hàng năm của Hội Nhà văn Việt Nam hay một số hội địa phương cũng nằm trong tình trạng đó, chưa tạo ra được sự đồng thuận cao trong dư luận, được khen cũng lắm nhưng bị chê cũng nhiều.
Thế hệ nhà văn kháng chiến với những tên tuổi đã được định danh vững chắc trong lòng bạn đọc vẫn chưa hết duyên sáng tác, đã có những tác phẩm mới đóng góp cho nền văn học nước nhà như Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Hữu Thỉnh, Tô Nhuận Vỹ, Xuân Đức, Nguyễn Chí Trung, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc, Chu Lai, Thái Bá Lợi, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Nhật Ánh, Trung Trung Đỉnh, Lê Minh Khuê, Thanh Thảo, Lê Thị Mây... Thế hệ nhà văn xuất hiện ngay sau năm 1975 cũng đóng góp vào những tên tuổi quen thuộc như Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Việt Chiến, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Việt Hà, Trần Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Võ Thị Xuân Hà, Y Ban... Bạn đọc dần dà biết tới những nhà văn trẻ của thời đổi mới như Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp...
Những góc nhìn mới trong văn học
Văn học trong một thập kỷ rưỡi qua vừa hướng tới việc phản ánh hiện thực cuộc sống đương thời với những xung đột gay gắt, những hoàn cảnh chênh vênh, những bi kịch éo le của thời hậu chiến khi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần dần được xác lập như xu hướng tất yếu ở nước ta trong thời gian dài, vừa quay lại xem xét, mô tả lịch sử (sự kiện và nhân vật) dưới góc nhìn hôm nay. Đề tài lịch sử được một số nhà văn quan tâm cùng với dòng văn học viết về chiến tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược vẫn được thông chảy. Tuy nhiên, văn học không có nhân vật trung tâm (người lính) và đề tài chủ yếu (đánh giặc) như thời kháng chiến nữa.
Nhân vật của văn học nước ta trong mười lăm năm qua là con người; con người của dĩ vãng và hiện tại với những niềm vui và nỗi buồn, đớn đau và khát vọng vô tận. Con người bị ném vào bão lốc giông gió của thời cuộc, bị ràng rịt trói buộc bởi muôn vàn mối quan hệ phức hợp trong một xã hội “lắm người nhiều ma”. Thân phận con người là mối quan tâm hàng đầu và xuyên suốt của các nhà văn.
Cũng muốn nói thêm, dòng văn học viết về chiến tranh của chúng ta trong thời gian qua đã có những bước tiến mới. Cuộc chiến được mô tả, phản ánh trong nhiều tác phẩm văn thơ hầu như đã đoạn tuyệt với lối mòn “ta thắng địch thua, ta tốt địch xấu”. Nhân vật của các cuộc chiến, dù bên này hay bên kia đều được mô tả như những con người với những thăng trầm, sáng tối, may rủi của nó như trong các tiểu thuyết Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức, Vùng sâu của Tô Nhuận Vỹ, Đối chiến của Khuất Quang Thụy... Chính vì thế, cuộc chiến được miêu tả thật hơn và cũng công bằng nên sức hấp dẫn của các tác phẩm viết về chiến tranh càng tăng lên.
Với văn xuôi, tôi thấy khá ổn định trong nghệ thuật trình bày. Bạn đọc dễ dàng chấp nhận các phương pháp sáng tác hiện thực và hiện thực huyền ảo, các dạng tiểu thuyết, truyện ngắn có cốt truyện hay không có cốt truyện...miễn là hay. Hiện thực đến mức giản dị như tiểu thuyết Lính trận của Trung Trung Đỉnh cũng hấp dẫn chẳng kém gì hiện thực huyền ảo như tiểu thuyết Hoang tâm của Nguyễn Đình Tú...
Thơ ồn ào và muôn hình muôn vẻ hơn với nhiều trường phái, trào lưu sáng tác truyền thống, hiện đại và hậu hiện đại... Người ta không ngần ngại “nhập khẩu” những trường phái thơ từ phương Tây vào nước ta, tung hô khá ầm ĩ và lăng xê cho một số tác giả đi theo hướng này. Cụm từ “cách tân, đổi mới thơ” hay to tát hơn là “mở ra cuộc cách mạng thơ” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên các phương tiện thông tin đại chúng. Kết quả thì sao, chưa có “cuộc cách mạng thi ca” nào nổ ra nếu không muốn nói là thơ Việt đang ở trong tình trạng lộn xộn, hỗn mang, thật giả, hay dở khó nhận biết. Dạng thơ đề cao cái tục, cái nhục cảm tầm thường, thơ chửi đổng... xuất hiện đó đây và không phải không có người cổ súy hoan hô nó như là một hiện tượng “làm mới” thơ ca Việt.
Văn học vẫn vắng bóng tác phẩm đỉnh cao
Chúng ta không khỏi băn khoăn về các giải thưởng văn học trong những năm gần đây. Giải thưởng văn học góp phần định hướng sáng tác; điều đó không có gì là sai. Tuy nhiên, nhìn lại trong mấy năm gần đây, các giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và một số hội địa phương thường hay bị “săm soi” và có những ý kiến trái chiều.
Với cuộc sống có nhiều chất liệu và “vỉa quặng” như thế, với không khí sáng tác khá cởi mở, tại sao văn học Việt Nam hiện nay vắng bóng những tác phẩm đỉnh cao? Tại sao văn học hiện nay ít gắn bó với đất nước, dân tộc và nhân dân? Tại sao văn học ngày càng trở nên xa lạ, cách biệt với đông đảo quần chúng lao động? Tại sao vị thế của nhà văn không được tôn trọng và đề cao như trước đây? Phải chăng phần lớn những gì chúng ta viết ra không có ích cho công chúng; họ thấy trong đó phần hẹp hòi, vị kỉ nhiều hơn rộng lớn, bao dung, họ thấy sự tục tằn dơ dáy nhiều hơn cái tinh tế, trong sạch; chiến sĩ và đồng bào của ta ít thấy bóng dáng tâm hồn, cả hạnh phúc và nỗi đau của mình trong đó. Và như một hệ quả tất yếu, công chúng xa dần nhà văn, xa dần văn chương một cách lặng lẽ.
Một tác phẩm văn học xuất sắc và đạt tới đỉnh cao sớm muộn sẽ được nhiều công chúng đón nhận nhiệt thành. Trước hết, tầm tư tưởng và tính triết học trong tác phẩm đó phải cao, nó đủ năng lượng vượt ra biên giới để hòa nhập vào thế giới như những diễn giải cụ thể nhưng đầy tính nghệ thuật về nhân văn, về ý nghĩa tốt đẹp của cuộc sống. Tác phẩm ấy phải ôm trùm những vấn đề rộng lớn, những thông điệp sâu sắc và hữu dụng với dân tộc và nhân loại trong một xã hội đang có không ít cái tốt đẹp nhưng cũng ẩn chứa rất nhiều hiểm họa của cái ác, cái suy thoái đạo đức nhân phẩm con người trong phạm vi toàn cầu. Những kiểu viết rả rích gặm nhấm cái bản năng một cách luẩn quẩn thái quá, quay đi quay lại vẫn cô đơn, tuyệt vọng, mông vú, chất thải, làm tình... khó được đông đảo công chúng chấp nhận và làm sao vươn tới đỉnh cao được. May lắm nó chỉ ào lên trong một thời điểm nào đó rồi sẽ mau chóng lịm ngất đi và chết. 15 năm qua, không hiếm những cái chết văn chương như thế.
Tài năng vẫn là yếu tố quan trọng bậc nhất để tạo ra tác phẩm xuất sắc và tác phẩm đỉnh cao. Tài năng bao giờ cũng hiếm nên tác phẩm đỉnh cao không dễ dàng có được và cũng chẳng bao giờ nhiều.
Nguyễn Hữu Quý