Các nhà nghiên cứu đã xem xét gần 2.700 người ở Mỹ tự tử trong khoảng từ năm 2000 đến 2013 và xác định được 17 tình trạng bệnh có liên quan với tăng tỉ lệ tự tử bao gồm: Hen, đau lưng, tổn thương não do chấn thương, ung thư, suy tim sung huyết, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, tiểu đường, động kinh, HIV/AIDS, bệnh tim, tăng huyết áp, rối loạn thận, đau nửa đầu, Parkinson, đau do căn nguyên tâm lý, các rối loạn giấc ngủ và đột quỵ.
Mặc dù tất cả các tình trạng bệnh này đều có liên quan với tăng nguy cơ tự tử, song mối liên quan rõ ràng hơn đối với một số bệnh. Ví dụ, nguy cơ tự tử cao hơn 9 lần ở những người bị tổn thương não do chấn thương và cao gấp 2 lần ở những người bị các rối loạn giấc ngủ và HIV/AIDS. Có hơn một vấn đề sức khỏe mạn tính cũng làm tăng nguy cơ tự tử.
Được đăng trên tờ American Journal of Preventive Medicine ngày 12/6, mặc dù nghiên cứu phát hiện ra mối liên quan giữa các vấn đề thể chất mạn tính và nguy cơ tự tử song không chứng minh mối quan hệ nhân quả.
Theo nhóm nghiên cứu, các bác sĩ chăm sóc ban đầu và những chuyên gia có thể đóng vai trò quan trọng trong phòng ngừa tự tử. Các tác giả nghiên cứu nhận xét, 80% số người tự tử tới gặp bác sĩ trong vòng 1 năm trước khi quyết định kết liễu cuộc đời. 50% tìm tới bác sĩ trong vòng 4 tuần trước khi tự vẫn. Do hầu hết những bệnh nhân này không có chẩn đoán gặp vấn đề sức khỏe tâm thần, nên những nỗ lực phòng ngừa tự tử trong chăm sóc sức khỏe tâm thần có thể bỏ sót những người có nguy cơ.