NKBV làm tăng tỉ lệ tử vong, làm chậm tiến triển của bệnh dẫn đến kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí chăm sóc người bệnh.
Thế nào là NKBV?
NKBV là nhiễm khuẩn mắc phải trong thời gian nằm viện mà nhiễm khuẩn đó không có triệu chứng lâm sàng hoặc đang ủ bệnh tại thời điểm nằm viện. Nhiễm khuẩn (NK) xảy ra 48 đến 72 giờ và trong vòng 10 ngày sau khi bệnh nhân (BN) xuất viện được coi là NK mắc phải tại bệnh viện (trừ viêm dạ dày ruột do Norwalk virus thời gian ủ bệnh ngắn hơn 48 giờ, viêm gan siêu vi A lâu hơn 10 ngày).
Tỉ lệ NK trong một bệnh viện rất quan trọng, nó phản ánh công tác chuyên môn của một bệnh viện (khả năng chống NK, việc xây dựng, giám sát và thực hiện những qui trình chuẩn trong công việc hàng ngày…) và ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của cả người bệnh và nhân viên y tế. Tỉ lệ NKBV trên toàn thế giới khoảng từ 3,5 - 10% tổng số người bệnh nằm điều trị nội trú và ở bất cứ thời điểm nào cũng có khoảng 1,4 triệu người bị mắc NKBV.
Môi trường bệnh viện đông đúc là nguy cơ gây NKBV. Ảnh: TM
Các yếu tố dẫn đến NKBV
Có rất nhiều yếu tố dẫn đến NKBV. Hàng đầu là do không khí trong môi trường BV bị NK. NKBV lây lan theo chất bẩn, hơi nước, hoặc các hạt bụi lơ lửng trong không khí. Gần đây người ta còn chú ý tới vai trò của các máy điều hòa nhiệt độ trong việc lây truyền vi khuẩn Legionella pneumophila gây viêm phổi. NKBV cũng có thể do thực hiện nhiều thủ thuật xâm nhập (tiêm truyền, phẫu thuật, thở máy, thủ thuật thai sản…); do dụng cụ y tế, thực phẩm, nguồn nước bị NK; do nhân viên y tế đặc biệt là tay nhân viên y tế trước và sau khi chăm sóc bệnh được xem là nguyên nhân quan trọng nhất trong việc phát tán vi khuẩn gây bệnh. NKBV có thể do sự lây lan từ BN này sang BN khác trong thời gian nằm viện. Đôi khi cũng có thể do những người nhà thăm nuôi BN vì họ có thể là những người đang NK, những người đang trong thời kỳ ủ bệnh hoặc là người lành mang khuẩn. Những người tham gia chăm sóc BN cũng góp phần vào việc lan truyền vi khuẩn từ BN này sang BN khác nếu không tuân thủ chặt chẽ các qui định về vệ sinh an toàn chống NK trong BV.
NKBV cũng có nguy cơ từ những khoa điều trị đặc biệt phải sử dụng nhiều loại kháng sinh dẫn đến sự tồn tại kéo dài hoặc phát sinh mới những chủng VK kháng thuốc. Điều nguy hiểm ở chỗ các đơn vị này không được thay đổi vị trí thường xuyên dẫn đến sự tồn tại các “ổ vi khuẩn” kháng thuốc trong bệnh viện.
Các loại nhiễm khuẩn thường gặp và chủng vi khuẩn gây bệnh
Hầu như tất cả các cơ quan của cơ thể đều có nguy cơ mắc NKBV tuy mức độ có khác nhau. NK huyết là rất thường gặp (gặp ở trẻ sơ sinh, người cao tuổi, suy giảm miễn dịch, người có các bệnh mạn tính như COPD, suy tim...). Tác nhân thường gặp là Staphylococcus aureus, Enterococci,... NK đường hô hấp, điển hình là viêm phổi (ở người lớn tuổi, những BN dùng máy thở, mổ lồng ngực, chấn thương ngực kín, tràn khí, tràn dịch màng phổi…). Tác nhân thường gặp là vi khuẩn Gram âm, trực khuẩn mủ xanh, acinetobacter B, tụ cầu vàng, nấm. NK tiết niệu (gặp ở người cao tuổi, phụ nữ, BN nặng tại các khoa HSTC phải đặt sonde tiết niệu, BN sau làm thủ thuật như nội soi, tán sỏi bàng quang, niệu quản, thận… ). Các vi khuẩn thường gặp: Gram (-), Gram ( ), Candida sp, E.coli, trực khuẩn mủ xanh, Acinetobacter B… NK vết mổ là một NKBV rất thường gặp, đặc biệt là ở các BN được mổ cấp cứu (do điều kiện vô khuẩn không thể tốt như mổ có kế hoạch). Tác nhân chủ yếu là vi khuẩn Gram (-), Gram ( ) chủ yếu là S.aureus, Enterococci và các vi khuẩn khác. NK thần kinh đặc biệt hay gặp ở khoa phẫu thuật sọ não (BN chấn thương sọ não hở), loại NK này rất nguy hiểm nếu nhiễm các chủng vi khuẩn kháng kháng sinh. BN viêm não thất do trực khuẩn mủ xanh hoặc Acinetobacter gần như chắc chắn tử vong. Các NK đường tiêu hóa cũng thường gặp ở các BN nặng tại các khoa Hồi sức tích cực. Ở các đối tượng BN này thường có liệt ruột, tưới máu ruột kém, dùng các thuốc giảm tiết dịch vị (chống loét do stress) dẫn đến tăng xâm nhập của VK vào lớp niêm mạc đường tiêu hóa gây tổn thương. Thường gặp là viêm ruột do vi khuẩn kỵ khí, tụ cầu, các cầu khuẩn đường ruột, vi khuẩn gram âm. Các NK ngoài da, viêm tĩnh mạch do tiêm truyền không đảm bảo vô khuẩn, do lưu kim luồn lâu, do đặt catheter tĩnh mạch trung tâm cũng thường gặp và chiếm khoảng 2 - 15% các NKBV nói chung. Tác nhân hay gặp nhất là tụ cầu (25%). Loại NK này có thể gây viêm tắc tĩnh mạch dẫn đến tắc mạch phổi cấp. Các NK cơ, xương khớp cũng chiếm khoảng 3% tổng số các NKBV. Tác nhân viêm thường do tụ cầu. Vi khuẩn lan theo đường máu hoặc tại chỗ trong khi làm các thủ thuật xâm nhập như tiêm bắp, tiêm nội khớp… Viêm nội tâm mạc NK, mặc dù ít gặp nhưng rất khó điều trị nếu nhiễm các chủng vi khuẩn đa kháng. Vi khuẩn thường vào theo đường tĩnh mạch trong khi tiêm truyền hoặc vào theo các tĩnh mạch lớn trong khi làm thủ thuật: đặt catheter TMTT, đặt máy tạo nhịp, phẫu thuật tim, lồng ngực. Các NK sản khoa: thường do vi khuẩn gram âm. NK sản khoa rất thường gặp do can thiệp thủ thuật nhiều, vị trí dễ bị NK và khó chăm sóc. Vi khuẩn thường gặp là gram âm, nấm.
Dùng kháng sinh trong NKBV như thế nào?
Trước hết, phải tuân thủ nguyên tắc dùng kháng sinh: Không dùng kháng sinh tràn lan tùy tiện. Dùng kháng sinh tập trung vào các loại vi khuẩn hay gặp như trực khuẩn mủ xanh, tụ cầu vàng, vi khuẩn gram âm, nấm, kỵ khí. Dùng kháng sinh đủ liều, nên dùng kháng sinh đường tiêm truyền. Loại bỏ tác nhân NK và các yếu tố nguy cơ. Dùng theo kháng sinh đồ nếu kết quả nuôi cấy đáng tin cậy và phù hợp với bệnh cảnh lâm sàng.