Giun lươn là một loại giun tròn nguy hiểm nhất trong các loại ký sinh trùng đường tiêu hóa ở người vì chúng có thể tự nhân lên trong cơ thể (do quá trình tự nhiễm). Ở nước ta, tỷ lệ nhiễm giun lươn và tái nhiễm khá cao, chiếm 1-2% dân số. Điều đáng chú ý là khi nhiễm bệnh, giun lươn tồn tại rất lâu trong cơ thể và có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí có thể đe dọa tính mạng người bệnh, trong khi đó, việc điều trị còn nhiều hạn chế.
Giun lươn xâm nhập cơ thể như thế nào?
Ấu trùng giun lươn xâm nhập cơ thể bằng cách chui qua da, sau đó theo đường tĩnh mạch về tim, qua phổi, tới khí quản. Sau đó, nó tới hầu rồi chuyển sang thực quản, xuống ruột để trở thành giun trưởng thành. Giun trưởng thành ký sinh ở niêm mạc ruột, sau khi giao hợp sẽ đẻ trứng. Trứng nhanh chóng phát triển thành ấu trùng dạng tự do và bị đào thải ra ngoài. Ở môi trường bên ngoài, một số ấu trùng tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành, ăn vi khuẩn, các chất hữu cơ trong đất, giao hợp, đẻ trứng tạo thế hệ mới. Một số ấu trùng khác xâm nhập cơ thể người và gây bệnh. Bệnh giun lươn thường khó xác định vì nó hay phối hợp với các ký sinh trùng đường ruột khác, gây nên những triệu chứng lâm sàng có tính chất pha trộn. Nhiều trường hợp nhiễm giun lươn mà không có triệu chứng lâm sàng.
Tổn thương da gan bàn chân do ấu trùng giun lươn.
Biểu hiện khi nhiễm giun lươn
Bệnh giun lươn được chia thành 2 dạng:
Dạng mạn tính, không biến chứng: gặp ở người bình thường, không suy giảm miễn dịch. Bệnh nhân hầu như không có triệu chứng. Các biểu hiện có thể gặp gồm:
Ở da: có những đường ngoằn ngoèo (thường là ngang thắt lưng, quanh hậu môn) do ấu trùng di chuyển. Các vết bầm máu (kích thước khoảng 3 - 4cm) rải rác ở các chi, thân mình và nổi mề đay.
Đường tiêu hóa: đau bụng, tiêu chảy, ngứa hậu môn, sụt cân nhẹ. Đau bụng có thể ở bất cứ vị trí nào nhưng thường hay đau vùng trên rốn và vùng bên phải. Vì vậy dễ chẩn đoán nhầm là đau dạ dày; đau do gan mật; đầy hơi trướng bụng; tiêu chảy phân mỡ, phân hôi tanh…
Biểu hiện ở các cơ quan khác như viêm phổi gây ho, khó thở (Xquang phổi có vùng thâm nhiễm), viêm đa khớp, đau cơ, phù toàn thân, phì đại hạch... Có trường hợp tìm thấy ấu trùng giai đoạn 1 trong nước tiểu.
Dạng nặng, có biến chứng: gặp ở người bị suy giảm miễn dịch như: đái tháo đường, suy dinh dưỡng, nghiện rượu, dùng các thuốc ức chế miễn dịch, thuốc điều trị ung thư, nhiễm HIV, suy gan, suy thận… Mức độ bệnh tùy thuộc mật độ nhiễm và cơ quan bị giun ký sinh, bệnh nhân có kèm nhiễm khuẩn hay không. Tùy theo vị trí ký sinh của ấu trùng trong cơ thể, bệnh nhân sẽ có những hiểu hiện lâm sàng khác nhau ở những cơ quan tương ứng. Ở dạng này, bệnh thường diễn tiến nặng và phức tạp như: gây tắc ruột, viêm phổi, viêm màng não và nhiễm khuẩn huyết… Nếu không được chẩn đoán kịp thời, có thể tử vong.
Nhiễm giun lươn được điều trị bằng các thuốc đặc trị như: thiabendazole, mebendazole, albendazole. Tuy nhiên, việc điều trị biến chứng do giun lại rất khó khăn.
Cấu trúc ấu trùng giun lươn.
Biến chứng nguy hiểm
Ấu trùng giun lươn di chuyển có khi lạc chỗ, chính vì vậy đã gây ra nhiều biến chứng ở các cơ quan khác nhau:
Ở hệ thần kinh: ấu trùng giun lươn phát triển trong lòng ruột, sau đó xuyên qua thành ruột, theo máu đi thẳng lên hệ thống thần kinh trung ương gây viêm não, màng não, áp-xe não và xuất huyết não khiến cho nhiều thầy thuốc lâm sàng chẩn đoán nhầm với một số bệnh lý viêm màng não do virut, vi khuẩn, lao, nấm... Đây là một trong những tổn thương nặng nề, nguy hiểm và tử vong nhiều nhất.
Ở hệ hô hấp: giun lươn còn có thể gây ra viêm phổi, áp-xe phổi, xuất huyết phổi, gây khó thở...
Nhiễm khuẩn huyết: do kéo theo hoặc đồng nhiễm với các loại vi khuẩn nên gây nhiễm khuẩn huyết là một bệnh toàn thân rất nguy hiểm.
Ở hệ tiêu hóa: gây viêm ruột, tắc ruột, thủng ruột, xuất huyết tiêu hóa, tắc nghẽn đường mật. Ngoài ra, bệnh còn gây tổn thương trên nội tâm mạc, viêm tụy, suy gan, suy thận…
Phòng ngừa bằng cách nào?
Để phòng nhiễm giun lươn, bản thân mỗi người và cộng đồng cần có những biện pháp vệ sinh môi trường; quản lý tốt phân, nước, rác; vệ sinh cá nhân, không phóng uế bừa bãi; có biện pháp phòng hộ trong lao động và trong sinh hoạt hằng ngày, đặc biệt những người thường tiếp xúc với đất (nên mang găng tay, đi giày dép, đi ủng); người có những biểu hiện nghi ngờ bị nhiễm giun lươn nên đến khám chuyên khoa ký sinh trùng để được xét nghiệm xác định bệnh, chữa trị càng sớm càng tốt.
BS. Nguyễn Văn Thịnh
“Ðể chẩn đoán chính xác nhiễm giun lươn” BS. Nguyễn Tiến Lâm - Trưởng khoa Virut - KST, BV Bệnh nhiệt đới TW. Trường hợp một phụ nữ 41 tuổi ở Khương Đình, Hà Nội xuất hiện các vết ngoằn ngoèo dưới da nghi mắc bệnh “giun lươn” mà báo chí đã thông tin thời gian qua. Ngày 11/1, trao đổi với PV báo SK&ĐS, BS. Lâm cho biết, bệnh nhân này không đến BV khám nên mọi chẩn đoán chỉ dựa trên triệu chứng và biểu hiện bệnh… Nhiễm giun lươn có 3 nhóm: Nhóm mang mầm bệnh nhưng không có biểu hiện lâm sàng, đây là một trong những nguồn lây nhiễm lớn trong cộng đồng; Nhóm có biểu hiện tổn thương ở đường tiêu hóa (rối loạn tiêu hóa hay tái phát) và ở da (nốt ngoằn ngoèo do ấu trùng di chuyển) và nhóm nhiễm đa cơ quan (phổi, não…) Có trường hợp ấu trùng giun lươn không chui xuống ruột mà đi lạc chỗ lên não, gây tổn thương não, viêm màng não do giun hoặc tới phổi gây viêm phổi, áp-xe phổi… Điển hình là bệnh nhân Đinh Thị Nh. (24 tuổi, Quỳnh Lưu, Nghệ An) bị viêm màng não do ấu trùng giun lươn mà bệnh viện đã điều trị hồi tháng 5 vừa qua. BS. Lâm cũng cho biết, việc chẩn đoán bệnh nhân bị nhiễm giun lươn cần tiến hành xét nghiệm phân, kiểm tra dị ứng nguyên trong da, nội soi tá tràng, sinh thiết, nội noi phế quản tìm ấu trùng giun lươn… Theo BS. Lâm, những người bị nhiễm các loại giun hay sán nói chung đều gây nguy hiểm đến sức khỏe cũng như ảnh hưởng đến tính mạng nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Vì vậy, để phòng ngừa nhiễm giun sán, mọi người cần có ý thức giữ vệ sinh ăn chín uống sôi, dùng bảo hộ lao động. Những người thường xuyên tiếp xúc với bùn đất (trồng màu, làm ruộng) nên tẩy giun định kỳ. Hồng Mai |
Thai phụ nhiễm ký sinh trùng sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau Kết quả nghiên cứu của các bác sĩ Trường ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM cho biết: Những trẻ sinh ra từ bà mẹ nhiễm giun lươn, giun móc có thể sẽ giảm đáp ứng với vaccin ngừa lao. Sản phụ nhiễm giun sán còn có nguy cơ gây sẩy thai, con dị tật. Nghiên cứu khảo sát trong 2 năm trên 323 cặp thai phụ và trẻ sau khi sinh được 6 tháng tuổi thì có đến 41% thai phụ nhiễm giun đũa chó mèo, 18% nhiễm giun móc và tỷ lệ nhiễm giun lươn là 8%. Trong đó, giun móc và giun lươn là hai “thủ phạm” chính, gây giảm hiệu quả của vaccin BCG ngừa lao trên trẻ. Cụ thể, ở nhóm trẻ có mẹ nhiễm giun lươn, tỷ lệ không đáp ứng với vaccin là 11%. Tương tự, ở nhóm trẻ có mẹ bị nhiễm giun móc, tỷ lệ không đáp ứng với vaccin là 24%. Đây có thể là một trong những nguyên nhân gián tiếp khiến trẻ mắc các thể lao cấp tính, lao nặng dẫn đến tử vong. Việt Nam có tới 32% phụ nữ mang thai bị thiếu máu, trong đó nhiễm giun, sán là một trong những nguyên nhân gây thiếu máu. Thiếu máu ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe cả mẹ và con. Nghiên cứu cho thấy phụ nữ nhiễm giun sán có thể bị sẩy thai, con bị dị tật và mẹ thường bị thiếu máu, do vậy, dễ gặp các tai biến khi sinh nở. Nếu nhiễm ký sinh trùng Toxoplasma gondii, thai phụ có nguy cơ sẩy thai trong 3 tháng đầu thai kỳ, thậm chí có thể sẩy thai liên tục vào những lần mang thai sau đó. Ngoài ra, ký sinh trùng này còn tấn công vào não em bé qua nhau thai, gây tắc đường dẫn lưu các dịch não tủy, khiến trẻ bị não úng thủy. Các chuyên gia ký sinh trùng khuyến cáo: khi có một trong các dấu hiệu như rối loạn thói quen đi đại tiện, đi cầu táo bón xen kẽ tiêu chảy, đi phân nát kéo dài nhiều tháng, nhiều năm hoặc khi người bệnh cảm thấy bụng đau lâm râm quanh rốn, đau mơ hồ âm ỉ ở thượng vị, hoặc bị sụt cân (dù ăn uống đều đặn, ăn nhiều); người xanh xao, thiếu máu kéo dài mà không tìm được nguyên nhân, có khối sưng bất thường trên cơ thể mà uống thuốc kháng sinh, kháng viêm vẫn không hết thì cần đến ngay các cơ sở y tế có chuyên khoa ký sinh trùng để khám xét nghiệm. Khi chẩn đoán đúng bệnh do giun sán gây ra, tùy vào từng loại ký sinh trùng mà bác sĩ sử dụng những thuốc đặc trị khác nhau. Đặc biệt, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên được điều trị giun sán (nếu nhiễm) trước khi có ý định mang thai. BS. Kim Anh |