Nhiều loại thuốc dùng trong nhiễm độc thai nghén đều có ở tuyến y tế xã hoặc rất dễ mua, nhưng nếu tự ý dùng những thuốc này chữa triệu chứng không đúng cách sẽ có nhiều nguy hiểm.
Nhiễm độc thai có biểu hiện: huyết áp cao kèm với phù hoặc protein niệu cao cộng với phù hay cả huyết áp cao, protein niệu cao (mức 2 ).
Nhiễm độc thai gây nên các biến cố nguy hiểm, có thể dẫn đến các kết cục bi thảm: bà mẹ bị co giật (sản giật) ngợp thở (phù phổi cấp), đứt mạch máu não, suy tim, suy thận, nặng nhất là tử vong. Thai có nguy cơ chậm tăng trưởng, èo uột, yếu, suy thai, nặng hơn nửa là chết thai, có trường hợp chết cả mẹ lẫn con.
Cho đến nay vẫn chưa rõ vì sao có nhiễm độc thai. Những lý do nêu lên như dinh dưỡng, rối loạn đông máu, di truyền chỉ có tính giả thiết. Vì thế, khó biết trước người nào sẽ bị nhiễm độc thai.
Người bệnh, nhân viên y tế tuyến dưới cần thấy tính nghiêm trọng của nhiễm độc thai. Khi thấy những biểu hiện bất thường, nghi ngờ đến nhiễm độc thai, phải bằng mọi cách chuyển thai phụ ngay lên tuyến trên, tránh dùng các thuốc chữa triệu chứng không đúng cách.
Sau đây là những sai lầm khi dùng thuốc cần tránh:
Nguy hiểm của việc dùng thuốc lợi niệu
Khi có thai cơ thể nặng thêm do mang thai do dự trữ thêm nước dùng cho mẹ và thai (thai phụ thường nặng thêm 7kg) nên có phù ít hay nhiều. Đây là sinh lý bình thường. Phù chỉ là một dấu hiệu báo động, chứ không phải là yếu tố nhiễm độc thai. Không được dùng bất cứ thuốc chống phù nào.
Khi nhiễm độc thai, nước bị thất thoát ra ngoài hệ tuần hoàn và nằm ở dưới da, nhìn bề ngoài thấy phù song thật ra do sự thất thoát nước nên máu đã bị đặc hơn bình thường. Nếu dùng thuốc lợi niệu, nước càng bị thất thoát hơn, máu sẽ bị đặc hơn nửa, kèm theo việc mất một số chất, gây nên rối loạn cân bằng nước- điện giải. Điều này không chỉ xảy ra khi dùng các lợi niệu bằng hóa dược (các thiazid) mà còn xảy ra ngay khi dùng lợi niệu bằng thảo dược (bông mã đề, râu ngô, cây râu mèo).
Cân nhắc và theo dõi kỹ khi dùng thuốc hạ huyết áp
Huyết áp bình thường là 120/80mmHg. Khi có thai, huyết áp có thể nhích lên một chút là cần thiết để có thể bơm máu, chất dinh dưỡng, oxy đến nuôi thai. Nếu huyết áp ở mức ³ 140/90mmHg được coi là huyết áp cao, nhưng chỉ khi huyết áp đạt đến mức ≥ 160/110mmHg mới được coi là mức huyết áp cao nguy hiểm. Tất cả các loại thuốc hạ huyết áp đều làm giảm áp lực máu, dẫn tới giảm lượng máu đến thai, do đó sẽ làm giảm lượng chất dinh dưỡng, oxy đến nuôi thai. Vì vậy, không được dùng thuốc hạ huyết áp khi người có thai có huyết áp tăng nhưng chưa đến mức nguy hiểm mà chỉ bắt buộc phải dùng khi huyết áp cao đến mức nguy hiểm; ngay lúc này cũng chỉ dùng trong một thời gian ngắn, nếu tình trạng bệnh đã cải thiện thì phải ngừng dùng. Cụ thể là chỉ dùng khi huyết áp tâm trương110mmHg nhưng không nên hạ huyết áp tâm trương xuống < 95mmHg.
Cần thận trọng với thuốc chống sản giật, dọa sảy thai
Sản giật là môt tai biến nặng làm cho nhiễm độc thai diễn biến xấu hơn trong đó có việc dọa sảy thai. Để xử lý việc này, thường dùng hai thuốc:
Magie sulfat: thuốc cổ điển. Đến nay vẫn dùng, vì vừa phòng vừa chống được sản giật. Là thuốc mạnh. Nếu dùng liều quá cao sẽ làm tăng cao nồng độ magie - máu, gây đổ mồ hôi, trụy tuần hoàn, mất phản xạ, yếu cơ, suy giảm chức năng tim, thần kinh trung ương. Trong sản giật, chức năng thận không bị rối loạn, magie sulfat vẫn bài tiết nhanh, không gây nhiễm độc thận. Nhưng với người chức năng thận bị suy giảm thì sự bài tiết bị hạn chế, nồng độ magie sulfat máu cao dễ dẫn đến những tai biến như dùng magie liều cao. Tuyến y tế cơ sở được phép trang bị thuốc này dùng trong cấp cứu nhưng phải hết sức thận trọng.
Nifedipin sulfat: thuốc hạ huyết áp nên có các tác dụng chính và phụ như các thuốc hạ huyết áp khác. Mặt khác tuy chưa có bằng chứng trên người nhưng trên súc vật thí nghiệm, nifedipin sulfat làm rối loạn việc tưới máu tử cung gây quái thai (bất thường ở đầu chi chuột, thỏ; chết phôi và thai ở chuột lang, chuột nhắt, thỏ; làm cho kích thước nhau thai nhỏ lại, nhung mao kém phát triển ở khỉ; kéo dài thời gian mang thai, thú sơ sinh giảm khả năng sống sót ở chuột). Vì vậy, trong tất cả các tài liệu chuyên môn đều có ghi “không nên dùng nifedipin cho người mang thai”.
Tuy nhiên, nifedipin chặn dòng canxi đi qua màng tế bào, làm giảm canxi trong tương bào dẫn đến một tác dụng dược lý quý giá là làm giãn tử cung, chống cơn gò tử cung, chống sản giật, chống co giật, làm tăng đáng kể thời gian lưu thai nhưng lại không kéo dài thời gian chuyển dạ, không gây tai biến cho thai. Vì vậy, nhiều nước đã cho dùng nifedipin chống dọa sảy thai, coi đó là một chỉ định chính. Người bệnh cần hiểu rõ điều này, đồng tình với chỉ định rất tinh tế, rất kiên quyết này nhằm cứu vãn tình thế sảy thai.
Nhiễm độc thai là nguy hiểm, nhưng nếu đo huyết áp, thử protein niệu ở tuyến y tế cơ sở thì có thể nhận biết các dấu hiệu nghi ngờ, chuyển người bệnh đến đúng tuyến trên, xử lý sớm, đúng cách, tích cực thì vẫn có thể tránh được rủi ro. Ngay cả trường hợp gặp rủi ro, sau khi điều trị khoảng 6 tuần, mọi cơ quan sẽ trở lại hoạt động bình thường, nếu huyết áp không còn cao, vẫn có thể có thai lại, không nên ám ảnh với thất bại lần có thai trước.
DS. BÙI VĂN UY