
Những rào cản khi triển khai nhãn sinh thái ở Việt Nam
Sáng nay (27/8), Báo Tiền Phong phối hợp với Cục Môi trường - Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Tọa đàm: "Thúc đẩy, sản xuất tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái". Tọa đàm có sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước, chuyên gia, hiệp hội và các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, kinh doanh sản phẩm nhãn sinh thái ở miền Bắc.
Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam được Bộ Tài nguyên và Môi trường, nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai từ năm 2009, nhằm khuyến khích sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường, giúp người tiêu dùng nhận diện và ưu tiên sử dụng sản phẩm xanh.
Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ triển khai, số lượng sản phẩm được cấp nhãn sinh thái còn rất khiêm tốn. Theo số liệu của Cục Môi trường, trong hai năm qua chỉ có 13 sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái, cho thấy còn nhiều khó khăn, thách thức và rào cản để đưa công cụ này thực sự phát huy hiệu quả.

Toàn cảnh hội thảo "Thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua nhãn sinh thái" tổ chức vào sáng 27/8.
Ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, nhãn sinh thái là công cụ chính sách về môi trường, được áp dụng phổ biến thành công ở nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc hay Thái Lan, liên minh Châu Âu, Mỹ, Canada...
Giúp nhà sản xuất chuyển đổi sang sản xuất xanh, bền vững, người tiêu dùng tiếp cận các sản phẩm an toàn với môi trường và sức khỏe. Ở Việt Nam, hành lang pháp lý về nhãn sinh thái đã từng bước được hoàn thiện, bắt đầu thí điểm từ năm 2009, sau đó triển khai thực hiện Luật bảo vệ môi trường 2014. Có 2 nhóm sản phẩm thân thiện môi trường là sản phẩm dán nhãn xanh Việt Nam, hai là sản phẩm bao bì, túi nilon được chứng nhận thân thiện môi trường.

Ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Ở Việt Nam, hành lang pháp lý cho "nhãn xanh" đã hình thành và hoàn thiện dần qua các giai đoạn. Từ Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, đến Luật năm 2014 và mới nhất là Luật năm 2020, quy định về nhãn sinh thái ngày càng cụ thể hơn.
Theo Luật Bảo vệ môi trường 2014, có hai nhóm sản phẩm được coi là thân thiện môi trường: sản phẩm được chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam và sản phẩm bao bì nilon thân thiện môi trường. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành tiêu chí cho các nhóm sản phẩm này, trong đó có túi nilon phân hủy sinh học và túi nilon tái chế. Nhờ đó, một số doanh nghiệp đã đầu tư cải tiến công nghệ, sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường và được cấp chứng nhận, dù số lượng còn khiêm tốn.
Nguyên nhân chính được chỉ ra là năng lực đổi mới công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế; đồng thời, chính sách ưu đãi, hỗ trợ tuy đã được quy định trong luật nhưng chưa được cụ thể hóa đầy đủ ở các văn bản dưới luật.
Một chính sách đáng chú ý là áp thuế bảo vệ môi trường 40.000 đồng/kg đối với túi nilon khó phân hủy. Biện pháp này đã góp phần hạn chế sản xuất túi nilon gây hại môi trường, khuyến khích doanh nghiệp chuyển sang sản phẩm xanh. Tuy nhiên, bất cập vẫn tồn tại khi nhiều cơ sở nhỏ lẻ, hộ gia đình né tránh thuế, tiếp tục sản xuất túi nilon kém thân thiện.
Đến Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, quy định về nhãn sinh thái được tích hợp, hợp nhất các hình thức chứng nhận trước đây thành "Nhãn sinh thái Việt Nam", áp dụng chung cho sản phẩm và dịch vụ thân thiện môi trường. Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi đã rõ ràng hơn. Đáng chú ý, trong các dự án đầu tư công, sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường sẽ được ưu tiên trong quá trình đấu thầu, qua đó khẳng định vai trò tiên phong của Nhà nước trong việc thúc đẩy thị trường xanh.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đến năm 2017 đã có 17 tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam được công bố, làm căn cứ để chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam đối với sản phẩm thân thiện với môi trường. Trong đó, 07 tiêu chí được áp dụng làm căn cứ chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam đối với 112 loại sản phẩm. Trong hai năm 2024 và 2025 có thêm 13 sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái
Doanh nghiệp cần tiên phong trong phát triển sản phẩm nhãn sinh thái
Ông Nguyễn Trung Thắng - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, sau hơn 20 năm triển khai, số doanh nghiệp đạt chứng nhận nhãn sinh thái còn rất hạn chế. Năm 2024 mới chỉ có 6 doanh nghiệp, đầu 2025 cũng chỉ thêm vài đơn vị – con số quá nhỏ so với hơn 900.000 doanh nghiệp hiện nay.
Thị trường tiêu dùng xanh trong nước chưa hình thành rõ nét. Người dân, đặc biệt tầng lớp trung lưu, ưu tiên nhiều hơn đến an toàn thực phẩm và sức khỏe, trong khi nhãn sinh thái chưa được nhận diện rộng rãi.
Khách hàng nhà nước – lực lượng tiêu thụ lớn – chưa thực sự phát huy vai trò. Quy định về mua sắm công xanh mới chỉ được đưa vào từ Luật Bảo vệ môi trường 2020, song việc áp dụng còn chậm và chưa đồng bộ.
Theo PGS.TS Nguyễn Thế Chinh - nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, mặc dù khung pháp luật về bảo vệ môi trường ngày càng hoàn thiện, song việc triển khai thực tế các sản phẩm gắn nhãn sinh thái vẫn còn hạn chế.
Có ba nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này. Thứ nhất, vai trò của doanh nghiệp. Để đạt chứng nhận nhãn sinh thái, doanh nghiệp phải đầu tư lớn từ quy trình sản xuất, công nghệ cho đến bao bì, thiết kế. Thứ hai, thị trường tiêu dùng xanh ở Việt Nam còn mới mẻ, chưa trở thành xu hướng phổ biến, khiến doanh nghiệp thiếu động lực chuyển đổi. Thứ ba, chính sách tuy đã có nhưng nhiều văn bản hướng dẫn còn chậm, chồng chéo, chưa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; chính sách thuế bảo vệ môi trường vẫn còn bất cập khi nhiều cơ sở nhỏ lẻ tìm cách né tránh.
Bên cạnh khó khăn, cơ hội cũng được nhấn mạnh. Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã bổ sung nội dung về tiêu dùng xanh và mua sắm công xanh, trong đó các sản phẩm có nhãn sinh thái sẽ được ưu tiên sử dụng bằng ngân sách nhà nước. Đây là tín hiệu quan trọng, giúp tạo lập thị trường và khuyến khích doanh nghiệp tham gia.
PGS.TS Nguyễn Thế Chinh cũng cho rằng, để doanh nghiệp thực sự đầu tư, cần thêm chính sách hỗ trợ cụ thể về vốn, thuế và tài chính. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, các quy định như CBAM của EU hay tiêu chuẩn ISO 14000 đặt ra yêu cầu bắt buộc về môi trường. Doanh nghiệp Việt Nam nếu chậm chuyển đổi sẽ mất lợi thế cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa.
"Tóm lại, ba vấn đề cốt lõi cần giải quyết là: doanh nghiệp – nhận thức và khả năng đầu tư; thị trường – xây dựng thói quen tiêu dùng xanh; chính sách – cần thông thoáng, minh bạch, đồng bộ. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam nâng vị thế trên thị trường quốc tế", PGS.TS Nguyễn Thế Chinh nhấn mạnh.
Theo các chuyên gia, để nhãn sinh thái thực sự đi vào cuộc sống, cần đồng thời tháo gỡ các rào cản về thị trường, chính sách và năng lực doanh nghiệp. Nhà nước phải phát huy vai trò "khách hàng tiên phong" thông qua mua sắm công xanh, còn doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức, chủ động chuyển đổi để đáp ứng yêu cầu trong nước và quốc tế.