Bệnh tim mạch là một trong những căn bệnh nguy hiểm, thường có diễn biến âm thầm và có thể để lại những di chứng nặng nề, thậm chí tử vong nếu phát hiện bệnh muộn, không can thiệp kịp thời. Vì vậy, nhận biết sớm dấu hiệu bệnh tim là một chìa khoá quan trọng bảo vệ sự sống.
Bệnh tim mạch rất đa dạng, biểu hiện với nhiều hình thái khác nhau. Trong đó hay gặp là người bệnh thấy thường xuyên mệt mỏi, khó thở, mức độ tăng dần. Ở trẻ nhỏ mắc bệnh tim mạch thường chậm phát triển thể chất, trẻ thường bị nhẹ cân, suy dinh dưỡng, hay bị viêm phổi tái diễn. Trong một số bệnh tim bẩm sinh thì trẻ có thể có kèm theo tím môi và đầu chi như trong bệnh Fallot. Một số trẻ có sốt cao liên tục do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (Osler) trên nền bệnh lý van tim hoặc tim bẩm sinh.
Đau tức ngực, khó thở... là biểu hiện sớm của các bệnh tim mạch.
Khó thở
Trong hầu hết các bệnh tim mạch, bệnh nhân thường thấy khó thở. Mức độ khó thở có thể từ nhẹ đến nặng, khó thở từ mạn tính hay khó thở cấp tính.
Khó thở mạn tính: Suy tim giai đoạn đầu thường chỉ khó thở khi gắng sức như làm việc nặng, khi lên cầu thang. Nếu không được điều trị, mức độ khó thở sẽ tăng dần, khó thở thường xuyên, cả khi nghỉ hoặc khó thở về đêm, người bệnh thường phải ngồi để thở.
Khó thở cơn, cấp tính: Là tình trạng cấp cứu do phù phổi hoặc hen tim, hay gặp trong các trường hợp nhồi máu cơ tim, đứt dây chằng van tim, bóc tách động mạch chủ...
Với các trường hợp khó thở, người bệnh cần đến tại cơ sở y tế ngay. Bác sĩ sẽ khám và làm các xét nghiệm cần thiết như làm điện tim đồ, siêu âm tim, chụp mạch vành, chụp cắt lớp lồng ngực để chẩn đoán chính xác nguyên nhân.
Đau ngực trái
Đau ngực có thể do nhiều nguyên nhân, tuy nhiên đau ngực trái, nhất là đau cấp tính, dữ dội hoặc đau có liên quan đến gắng sức thì có thể do các bệnh lý tim mạch nguy hiểm như nhồi máu cơ tim cấp, phình bóc tách động mạch chủ, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim...
Trong bệnh nhồi máu cơ tim, đau ngực trái thường xuất hiện đột ngột, liên quan gắng sức (gắng sức đau hơn, nghỉ ngơi đỡ đau), đau sau xúc động... Đau ngực có thể từ ngực trái, lan ra sau lưng, lan lên vai trái, cánh tay trái, kèm theo vã mồ hôi, khó thở, buồn nôn...
Để chẩn đoán cần được thăm khám và làm các xét nghiệm cần thiết như điện tim đồ, siêu âm tim, xét nghiệm men tim, chụp cắt lớp vi tính...
Đau đầu và tai biến mạch máu não
Người bệnh có tiền sử bệnh tim mạch hay tăng huyết áp có thể xuất hiện dấu hiệu nặng đầu vùng gáy, đau nửa đầu do co thắt mạch máu não. Hẹp động mạch cảnh thường đau đầu phối hợp với rối loạn tiền đình (chóng mặt, buồn nôn). Các bệnh lý van tim, rung nhĩ cũng có thể gây nhồi máu não. Đau đầu tăng dần và thường không giảm khi dùng các thuốc giảm đau thông thường. Đau đầu đôi khi là dấu hiệu đầu tiên của tai biến mạch não như xuất huyết não do tăng huyết áp, hay nhồi máu não do huyết khối gây tắc mạch (như trong trường hợp hẹp động mạch cảnh, rung nhĩ...)
Để chẩn đoán, ngoài thăm khám lâm sàng, người bệnh sẽ được làm siêu âm động mạch cảnh, siêu âm tim phát hiện các bệnh lý tim mạch và chụp cắt lớp vi tính sọ não.
Hồi hộp, đánh trống ngực và ngất
Hồi hộp, đánh trống ngực mới xuất hiện có thể do các bệnh lý về nhịp tim. Các cơn nhịp nhanh, rung nhĩ làm cho rối loạn nhịp tim, người bệnh sẽ cảm thấy hồi hộp, đánh trống ngực. Ngoài ra, cần loại trừ nguyên nhân nội khoa khác như cường giáp (bệnh Basedow).
Choáng ngất: người bệnh bị mất tri giác thoáng qua. Ở người cao tuổi có thể do nhịp tim quá chậm (suy nút xoang, tắc nghẽn nhĩ thất), hẹp khít van động mạch chủ, tụt huyết áp hay nhồi máu cơ tim cấp.
Với các dấu hiệu trên, bệnh nhân cần được đưa sớm đến cơ sở y tế chuyên khoa để có chẩn đoán xác định. Siêu âm tim để loại trừ các bệnh lý van tim hoặc suy tim. Điện tim đồ rất quan trọng để phát hiện bản chất nhịp tim như nhịp tim nhanh, hay nhịp chậm từ đó có các phương pháp điều trị thích hợp.
Ngoài ra, các dấu hiệu khác ít gặp trong bệnh tim mạch như ho ra máu, đau bụng vùng gan (vùng hạ sườn phải) hay đau chân khi đi lại, sưng phù chân... có thể do các nguyên nhân liên quan đến tim mạch.
Với tình hình các bệnh tim mạch gia tăng như hiện nay, để phát hiện sớm và phòng ngừa các biến chứng, người dân cần nâng cao kiến thức về bệnh tim mạch, khi xuất hiện các dấu hiệu bất thường cần đến ngay các trung tâm y tế chuyên khoa để kịp thời chẩn đoán và điều trị. Người dân cần được khám sức khỏe định kỳ và toàn diện hàng năm và tại các trung tâm y tế địa phương cần có các chương trình kế hoạch phổ biến kiến thức về sức khỏe, đặc biệt về sức khỏe tim mạch đến mọi người để có hiểu biết và chế độ sinh hoạt phù hợp nhất, nhằm nâng cao sức khỏe cho người dân.
BS. Ngô Tuấn Anh