Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên nhân do răng chiếm một vai trò quan trọng. Bệnh nếu không điều trị có thể biến chứng nguy hiểm đe doạ tính mạng bệnh nhân.
Nguyên nhân
Do răng
Biến chứng do mọc răng: Thời kỳ mọc răng có sự xáo trộn của xương hàm, tiêu chân răng sữa, chuẩn bị mọc răng vĩnh viễn nên có nhiều khe kẽ để vi khuẩn xâm nhập. Đặc biệt nguyên nhân do răng khôn mọc lệch hay gây lợi trùm dẫn đến giắt thức ăn cộng với xỉa răng dẫn đến viêm.
Do sâu răng dẫn đến viêm tủy, viêm quanh cuống... tổ chức phần mềm hoặc xương (môi trường tủy hoại tử thuận lợi cho vi khuẩn kị khí, ái khí phát triển, lan qua lỗ cuống răng gây viêm xương hàm và phần mềm (các răng sữa ít gây viêm phần mềm mà chỉ gây abces dưới màng xương vì chân răng ngắn).
Bệnh vùng quanh răng, đặc biệt viêm quanh răng... lan ra tổ chức phần mềm (mủ từ túi lợi lan qua xương ổ răng lan đến phần mềm).
Không do răng
Chấn thương, vết thương hàm mặt: vết thương phần mềm, gãy hở có mảnh vụn. Gãy qua chân răng...
Nhiễm khuẩn các khối u lành tính, ác tính đặc biệt các u có liên quan đến xương hàm, răng. U ác tính có loét.
Nhiễm khuẩn qua đường da, niêm mạc do nguyên nhân khác nhau (nang lông, tuyến bã).
Nhiễm khuẩn toàn thân: nhiễm khuẩn huyết, khu trú ở xương hàm, đặc biệt là xương hàm trên và gây cốt tủy viêm.
Viêm nhiễm vùng hàm mặt chiếm tỷ lệ cao trong các bệnh hàm mặt.
Một số thể lâm sàng thường gặp
Viêm tấy vùng cơ cắn góc hàm
Vùng cơ cắn được giới hạn bởi: Phía trước là vùng má, phía sau là vùng mang tai, phía trên là bờ dưới cung tiếp - gò má, phía dưới là góc hàm và bờ dưới xương hàm dưới.
Nguyên nhân chủ yếu do răng khôn, có thể sau gãy xương góc hàm đặc biệt gãy liên quan đến răng, gãy xương hàm nhiều mảnh vụn. Bệnh lý tủy răng, cuống răng.
Lâm sàng: Nhiễm trùng toàn thân: sốt cao, ăn khó, đau nhức. Có trường hợp rất mệt mỏi, bệnh nhân có thể khó thở, hạn chế há miệng, khít hàm. Tại chỗ: sưng nóng đỏ đau ở vị trí gãy, hoặc răng, lan tràn ra vùng góc hàm và xung quanh (xuống thấp hoặc lên trên) tại chỗ đau nhức liên tục, căng tức, không dám há miệng tăng cảm ngoài da. Khám trong miệng: niêm mạc góc hàm phù nề đỏ có khi che lấp răng, sờ đau, ấn bờ lợi góc hàm có thể có mủ trào ra.
Có thể thấy rằng nguyên nhân là răng hàm dưới viêm quanh cuống hoặc răng khôn mọc lệch, mọc ngầm, viêm quanh cuống.
Viêm tấy vùng má
Vùng má được giới hạn bởi: Phía trước là rãnh mũi - má và môi má, phía trên là bờ dưới ổ mắt và phía dưới là bờ dưới xương hàm dưới.
Nguyên nhân hay gặp là các răng hàm nhỏ và hàm lớn hàm trên, ngoài ra cũng có thể gặp áp-xe di cư mà nguyên nhân từ răng khôn hàm dưới (mủ từ túi viêm quanh thân răng khôn đi dọc gờ chéo ngoài của xương hàm dưới và tụ lại ở cơ mút gây áp-xe vùng má).
Triệu chứng: Toàn thân bệnh nhân mệt mỏi, sốt 38-390C, có phản ứng hạch dưới hàm. Tại chỗ: Những ngày đầu thấy sưng, nóng, đỏ, đau vùng má, rãnh tự nhiên bị xoá. Khi viêm đã tụ mủ thì bệnh nhân đỡ đau.
Khám trong miệng thấy: Niêm mạc má phồng đỏ. Có thể thấy rằng nguyên nhân là một răng hàm nhỏ bị viêm quanh cuống hoặc răng khôn đang mọc có viêm quanh thân răng. Khi mủ đã tụ, sờ thấy có đấu hiệu truyền sóng bằng cách dùng ngón tay trỏ và ngón cái để phía trong miệng và ngoài da bóp để tìm dấu hiệu này.
Viêm tấy lan tỏa vùng sàn miệng
Đây là viêm hoại tử lan rộng, không có giới hạn ở vùng sàn miệng. Nhiễm khuẩn gồm 2 loại ưu khí và kỵ khí phối hợp do đó tình trạng toàn thân rất nặng và tiên lượng xấu. Hầu hết các nhiễm khuẩn từ các chân răng hàm lớn hàm dưới lan qua xương hàm vào vùng sàn miệng.
Triệu chứng toàn thân: Bệnh nhân trong những ngày đầu sốt rất cao 39-400C sau đó xuất hiện tình trạng nhiễm khuẩn, nhiễm độc nặng. Mạch nhiệt độ phân ly, bệnh nhân thao cuồng, vật vã, khó thở, khó nuốt. Các xét nghiệm cho thấy bạch cầu tăng cao đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung tính, urê máu tăng, đường máu tăng, tốc độ máu lắng tăng cao, có thể có albumin và đường niệu.
Triệu chứng tại chỗ: Sưng to vùng dưới hàm sàn miệng một bên sau đó lan nhanh sang bên đối diện. Vùng sưng có thể lan rộng xuống cổ ngực, lên vùng cơ cắn, mang tai, thái dương. Mặt hình quả lê, da đỏ, căng chắc, sờ có thể thấy dấu hiệu lạo xạo hơi dưới da (do hoại thư sinh hơi).
Miệng ở tư thế nửa há (há không được to, ngậm không được kín) lưỡi bị đẩy gò lên cao và tụt ra sau gây khó thở, khó nuốt và khó nói. Nước bọt chảy nhiều, mùi hôi thối.
Khám trong miệng có thể gặp răng nguyên nhân hay gặp là răng hàm lớn hàm dưới bị chết tủy, viêm quanh cuống.
Tiên lượng: Rất nặng, bệnh nhân có thể tử vong do khó thở cấp, nhiễm trùng máu, áp-xe não, viêm tắc tĩnh mạch xoang hang hoặc viêm trung thất.