Thế nào được đánh giá là tiêu chảy?
Tiêu chảy là đi ngoài phân lỏng hoặc toé nước 3 lần trong ngày.
Tiêu chảy cấp là đợt tiêu chyar khởi đầu cấp tính kéo dài không quá 14 ngày, phân lỏng, toé nước. Hậu quả lớn nhất của tiêu chảy cấp là mất nước và điện giải dẫn đến rối loạn thăng bằng kiềm toan.
Nguyên nhân gây tiêu chảy cấp?
Do virus:
Đứng đầu là Rotavirus chiếm đến 60% gây tiêu chảy cấp ở trẻ nhỏ từ 6- 24 tháng tuổi gồm 6 typ huyết thanh trong đó có 4 typ gây bệnh thành vụ dịch, ít nhất một lần trẻ bị tiêu chảy trong hai năm đầu đời có miễn dịch với typ đó.
Adenovirus: Cũng gây thành dịch tiêu chảy nhưng ít gặp hơn
Ecoli: Chiếm 25% trong số nguyên nhân gây tiêu chảy cấp ở trẻ em.
Vi khuẩn: Lỵ trực khuẩn ha gặp là Shigella Flexneri là tác nhân gây lỵ trong 60% các đợt lỵ.
Samonella không gây thương hàng lây từ súc vật nhiễm trùng hoặc thức ăn động vật bị ô nhiễm, tiêu chảy phân toé nước đôi khi cũng biểu hiện như hội chứng lỵ..
Ký sinh trùng: Amip, Giardia cũng gây tình trạng tiêu chảy cấp.

Khi trẻ tiêu chảy mất nước nặng phải được điều trị tại bệnh viện.
Hậu quả của tiêu chảy:
Tiêu chảy dẫn đến mất nước, mất Natri
Nhiễm toan chuyển hoá
Thiếu Kali
Điều trị tiêu chảy cấp
Hồi phục nước và điện giải: Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuỳ theo mức độ mất nước A, B, C có thể bù nước và điện giải đã mất theo phác đồ.
Nên sử dụng dung dịch ORS hoặc các dung dịch thay thế ORS nếu không có sẵn ORS. Khuyến cáo gần đây của WHO là nên sử dụng ORS có áp lực thẩm thấu thấp: Pha 1 gói ORS với nước đã đun sôi để nguội hoặc đề 37 độ C cần phải có dụng cụ đong cho đúng, cho uống trong vòng 24 giờ, sau 24 giờ còn thừa phải không uống nữa. Lưu ý pha theo đúng tỷ lệ hướng dẫn trên bao bì của loại ORS.
Các dung dịch thay thế ORS:
(Chỉ áp dụng khi không có ORS, vì trẻ càng nhỏ nguy cơ mất nước và rối loạn điện giải càng cao khi sử dụng dung dịch tự pha chế tại gia đình), thời gian sử dụng được trong vòng 6 giờ kể từ khi pha.
Các dung dịch này cần đủ những điều kiện sau:
Na+ thích hợp = 50mmol/l
Tinh bột = 50 - 80g/l
Dung dịch nước cháo muói hoặc nước cháo gạo rang - muối =50 -80g gạo tẻ + 3,5 g muối + 1200ml nước (nấu chín đến khi hạt gạo vỡ ra còn 1000ml).
Dung dịch cháo cà rốt - muối: 50-80g gạo tẻ + 500g cà rốt + 3,5 muối + 1200ml nước (nấu chín nhừ còn 1000ml)
Dung dịch nước dừa tươi - muối: nước dừa tươi =1000ml + 3,5g muối
Dung dịch nước chuối chín (hoặc hồng xiêm chín) - muối: chuối chín hoặc hồng xiêm chín 500g nghiền nhỏ + 3,5g muối + 1000ml nước đun sôi để nguội hoặc để ấm 37 độ C
Nước sôi để nguội hoặc nước canh.

Phác đồ A (mất nước nhẹ )
Hồi phục nước và điện giải khi chưa có dấu hiệu mất nước lâm sàng điều trị tại nhà.
Cho trẻ uống nước và điện giải thường xuyên hơn bình thường, có thể dùng các dung dịch pha chế tại nhà, nước cháo muối, nước gạo rang hoặc Oreson (1 gói oreson có đường glucose 20g, đường phèn 3,5gr, clorua kali 1,5gr, bicarbonat 2,5gr). Tổng lượng dung dịch ORS cần uống:
Trẻ < 2 tuổi = 500ml/24 giờ, uống sau mỗi lần tiêu chảy 50-100ml
Trẻ 2 → 10 tuổi = 1000ml/24 giờ, uống bù sau mỗi lần tiêu chảy 100-200ml
Trẻ > 10 tuổi = 2000ml/24 giờ, uống bù sau mỗi lần tiêu chảy theo nhu cầu của trẻ cho đến khi hết khát.
Cách uống dung dịch ORS:
Trẻ < 24 tháng cho uống từng thìa nhỏ cách nhau 1-2 phút.
Trẻ lớn hơn uống từng ngụm bằng cốc.
Nếu bị nôn thì đợi 10 phút sau rồi cho trẻ uống dung dịch với lượng chậm hơn.
Phác đồ B (mất nước vừa )
Điều trị mất nước hoặc trung bình: Trẻ có dấu hiệu mất nước cần điều trị tại cơ sở y tế.
Cần bù nước và điện giải bằng đường uống trong 4 giờ đầu bằng oreson số lượng cho uống dựa theo cân nặng hoặc theo tuổi nếu không cân được.
Bảng tính số lượng Oreson trong 4 giờ đối với trẻ bị tiêu chảy mức độ B
Tuổi (tháng) | < 4 tháng | 4-11 tháng | 12-13 tháng | 2-4 tuổi | 5-14 tuổi | 15 tuổi |
---|---|---|---|---|---|---|
Cân nặng (kg) | < 5 | 5-8 | 8-11 | 11-16 | 16-30 | >30 |
ORS (ml) | 200-400 | 400-600 | 600-800 | 800-1200 | 1200-2200 | 2200-4000 |
Có thể tính số lượng dịch bằng ml, bằng cách nhân trọng lượng cơ thể bằng gram với 0,075.
Sau khi uống hết khối lượng trên (sau 4 giờ).
Cho trẻ uống thêm nếu trẻ còn muốn uống + bú mẹ (trẻ nhỏ), quan sát nếu thấy trẻ bị mất trẻ phụ nữ thì ngưng uống dung dịch ORS, thay vào đó bằng uống nước hoặc bú mẹ.
Sau 4 giờ nếu hết dấu hiệu mất nước thì chuyển sang điều trị phác đồ A. Nếu vẫn mất nước độ B thì điều trị phác đồ B.
Phác đồ C (mất nước nặng)
Điều trị bệnh nhân mất nước nặng: Trẻ có dấu hiệu mất nước nặng có thể tử vong nhanh chóng nếu không được bồi phụ dịch bằng đường tĩnh mạch. Trẻ mất nước độ C được điều trị tại bệnh viện.
Truyền dịch tĩnh mạch ngay cho trẻ có dấu hiệu sốc do giảm khối lượng tuần hoàn (mạch nhanh, yếu, lạnh đầu chi, vã mồ hôi, lị bì, hôn mê). Trường hợp không có khả năng truyền tình mạch ngay hoặc không thể truyền tĩnh mạch trong 30 phút phải bù cách khác.
Bù dịch bằng ống thông dạ dày: Số lượng dịch đưa vào ống thông dạ dày khoảng 20ml/kg/giờ nếu đưa nhanh hơn sẽ gây chướng bụng và nôn. Thường sử dụng khi không truyền tĩnh mạch được ngay hoặc trên đường chuyển bệnh nhi tới chỗ có thể truyền tĩnh mạch được.
Nếu không đặt được ống thông dạ dày hoặc không thể truyền tĩnh mạch được, cần tiếp tục cho trẻ uống 20 ml/kg/giờ nếu trẻ có thể uống được (1 thìa ORS/1 phút). Nếu trẻ bị chướng bụng thì không nên cho uống dung dịch ORS hoặc qua ống thông dạ dày.
Số lượng dịch truyền: Căn cứ bệnh nhi, khi mất nước nặng dịch mất tương đương với 10% trọng lượng cơ thể (100 ml/kg).
- Trẻ nhỏ: Cho truyền 30 ml/kg trong 1 giờ đầu, sau đó truyền 70 ml/kg trong 5 giờ sau. Tổng lượng dịch là 100 ml/kg trong 6 giờ đầu.
- Trẻ lớn: 30 ml/kg trong 30 phút đầu tiên, sau đó 70 ml/kg trong 2,5 giờ sau. Tổng số 100 ml/kg trong 3 giờ đầu. Sau truyền lần đầu 30 ml/kg thì mạch quay phải bắt được dễ dàng. Nếu mạch còn yếu, cần truyền lần thứ 2 tiếp 30 ml/kg với tốc độ như lần đầu.
Cần cho trẻ uống lượng nhỏ dung dịch ORS 5 ml/kg/giờ khi trẻ đã uống được để cung cấp thêm kali và kiềm.
Cần đánh giá sự tiến triển của các triệu chứng mất nước hàng giờ. Nếu những dấu hiệu mất nước không thay đổi hoặc xấu đi, đi ngoài nhiều, phân nhiều nước cần tăng tốc độ dịch bù. Cuối giai đoạn bù nước cần đánh giá lại tình trạng mất nước.
Nếu còn mất nước nặng tiếp tục bù nước theo phác đồ C. Nếu đã hết dấu hiệu mất nước nặng có thể chuyển sang điều trị phác đồ B hoặc phác đồ A cho uống dung dịch ORS, cho ăn. Trước khi thôi truyền tĩnh mạch 1 giờ cần cho uống ORS để chắc chắn có thể bù nước bằng đường uống.
Bài viết có sử dụng tư liệu của TS. Phan Bích Nga, Viện Dinh dưỡng Quốc gia Việt Nam.