Sỏi mật là trong lòng ống mật có những viên sỏi nhỏ, to, hay bùn mật ở vị trí trong gan hoặc ngoài gan, ở túi mật. Bệnh có thể gây viêm phúc mạc mật, sốc nhiễm khuẩn, chảy máu tiêu hóa… rất nguy hiểm.
Sỏi mật hình thành như thế nào?
Người ta thấy có hai loại sỏi mật thường được hình thành là sỏi cholesterol và sỏi sắc tố mật.
Loại sỏi cholesterol: vì một lý do nào đó làm cho các thành phần dịch mật thay đổi tỷ lệ: nồng độ cholesterol tăng lên, nồng độ chất làm tan (muối mật - lecithin) giảm xuống, khi đó cholesterol kết tủa tạo ra những tinh thể là tiền đề cho sự hình thành sỏi mật. Những yếu tố làm giảm bài tiết muối mật gồm: bệnh ở đoạn ruột cuối làm giảm hấp thu muối mật; người béo: dự trữ muối mật giảm, sản xuất muối mật tăng nhanh nhưng không nhanh bài tiết; người cao tuổi. Những trường hợp làm tăng tổng hợp cholesterol: chế độ ăn giàu calo, dùng thuốc oestrogen, cloflbrat. Vai trò của túi mật: túi mật tái hấp thu nước nên làm cho cholesterol được cô đặc hơn; đồng thời túi mật tiết ra chất mueus có tác dụng làm cho cholesterol và sắc tố mật dễ bị kết tủa.
Người bị sỏi mật cần có chế độ ăn hạn chế mỡ động vật. |
Biểu hiện của bệnh sỏi mật
Trên thực tế thường gặp ba thể bệnh chính như sau: một là trường hợp điển hình có Tam chứng Charcot, hội chứng tắc mật, bệnh tái phát nhiều lần, với các triệu chứng như trên chẩn đoán đúng sỏi mật 60- 75%. Hai là triệu chứng lâm sàng không điển hình: có cơn đau quặn gan, không vàng da, không tắc mật; hoặc tắc mật nhưng không đau quặn gan. Ba là bệnh nhân bị sỏi nhưng đến bệnh viên cấp cứu vì biến chứng như: viêm phúc mạc mật với các dấu hiệu nhiễm khuẩn nặng, bụng cứng, vàng da; sốc nhiễm khuẩn; sốt, túi mật to, đau; chảy máu tiêu hoá: nôn ra máu có hình thỏi kiểu như ruột bút chì; đau bụng cấp, nôn, trướng bụng.
Lưu ý trong điều trị và phòng bệnh
Việc dùng kháng sinh chống nhiễm khuẩn là rất quan trọng trong điều trị viêm nhiễm đường mật do sỏi. Tốt nhất là dựa vào kháng sinh đồ để dùng thuốc vừa hiệu quả, vừa rút ngắn thời gian mắc bệnh cho bệnh nhân. Trường hợp chưa làm được kháng sinh đồ thì phải dùng các loại kháng sinh có hoạt phổ rộng, liều cao như: colistin, cephalosporin, ampixillin, gentamyxin… Các thuốc giãn cơ, giảm co thắt như atropin, spasmaverin…; thuốc lợi mật như: sunfat magie, siro actiso, sorbitol…; các thuốc làm tan sỏi dùng trong các trường hợp viên sỏi nhỏ dưới 2cm, túi mật còn tốt, bệnh nhân không thể mổ được, hoặc đề phòng sỏi tái phát sau mổ. Phẫu thuật trong các trường hợp: sỏi gây viêm túi mật hoại tử, viêm phúc mạc mật, viêm tụy cấp, đau dữ dội mà dùng thuốc giảm đau không kết quả, chảy máu đường mật, áp-xe đường mật dọa vỡ, viêm đường mật kéo dài, tắc mật kéo dài, tái phát nhiều lần, sỏi túi mật… Lấy sỏi qua máy soi tá tràng…
Bệnh nhân bị sỏi mật cần thực hiện một chế độ ăn kiêng hợp lý đó là: kiêng ăn mỡ, nhất là các loại thịt mỡ động vật như bò, gà, lợn… Ăn giảm calo: chỉ ăn 2.000 calo/24 giờ. Uống các loại nước thuốc nam có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh như nước khoáng, nước nhân trần, actiso.
Phòng bệnh sỏi mật cần thực hiện nhiều biện pháp sau đây: khám bệnh định kỳ để kịp thời phát hiện và điều trị các bệnh là nguyên nhân gây sỏi mật như bệnh ở đoạn ruột cuối làm giảm hấp thu muối mật, rối loạn lipid máu; kiểm soát ăn uống chống thừa cân béo phì; tránh ăn chế độ ăn giàu calo; tránh dùng các thuốc oestrogen chữa bệnh cho người có bệnh sỏi mật từ trước; định kỳ 6 tháng một lần tẩy giun, thực hiện ăn chín uống sôi để tránh nhiễm giun.
ThS. Bùi Quỳnh Nga