Nhồi máu cơ tim cấp là tình trạng hoại tử một vùng cơ tim, hậu quả của thiếu máu cục bộ cơ tim. Nhồi máu cơ tim cấp là một bệnh lý thường gặp và có liên quan nhiều đến sức khỏe cộng đồng. Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, tỷ lệ nhồi máu cơ tim cấp ngày càng có khuynh hướng tăng lên rõ rệt. Mặc dù có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, nhưng nhồi máu cơ tim cấp vẫn là một loại bệnh nặng, diễn biến phức tạp, có nhiều biến chứng nguy hiểm luôn đe dọa tính mạng người bệnh.
Vì sao bị nhồi máu cơ tim cấp?
Nguyên nhân chủ yếu gây nhồi máu cơ tim cấp là do vữa xơ động mạch vành. Những mảng xơ vữa làm giảm khẩu kính lòng mạch và dần dần gây tắc mạch, làm cho máu không đến để nuôi cơ tim được, có thể dẫn đến hoại tử vùng cơ tim đó nếu không được can thiệp kịp thời. Tuy nhiên, mảng xơ vữa thường không phát triển từ từ mà nó có thể bị nứt, vỡ ra đột ngột. Khi mảng xơ vữa bị vỡ ra, quá trình hình thành cục huyết khối được khởi động. Quá trình này được bắt đầu với các tế bào máu đặc hiệu, gọi là tiểu cầu, tập trung tại vị trí mảng xơ vữa bị nứt. Cục máu đông có thể được hình thành ngay trên mảng xơ vữa bị nứt ra đó và gây tắc đột ngột động mạch vành.
Phương pháp đặt stent can thiệp nội mạch giúp bệnh nhân nhanh chóng phục hồi sau mổ.
Cơn đau thắt ngực điển hình
Biểu hiện chủ yếu của nhồi máu cơ tim cấp là cơn đau thắt ngực điển hình: đau như bóp nghẹt phía sau xương ức hoặc vùng trước tim, lan lên vai trái và mặt trong tay trái cho đến tận ngón đeo nhẫn và ngón út. Cơn đau thường xuất hiện đột ngột, kéo dài hơn 30 phút và không đỡ khi dùng thuốc giãn động mạch vành (nitroglycerin).
Đau có thể lan lên cổ, cằm, vai, sau lưng, tay phải hoặc vùng thượng vị. Tuy nhiên, có trường hợp bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim mà không có hoặc ít cảm giác đau (nhồi máu cơ tim thầm lặng): hay gặp ở bệnh nhân sau mổ, người già, bệnh nhân tiểu đường hoặc tăng huyết áp. Ngoài ra, còn có các triệu chứng khác: vã mồ hôi, khó thở, hồi hộp, đánh trống ngực, nôn hoặc buồn nôn, lú lẫn... Khám bệnh nhân giúp chẩn đoán phân biệt và phát hiện các biến chứng của bệnh. Những triệu chứng hay gặp là nhịp tim nhanh, tiếng tim mờ, tiếng ngựa phi, huyết áp có thể tăng hoặc giảm, xuất hiện tiếng thổi mới ở tim... Các xét nghiệm để chẩn đoán xác định như: điện tâm đồ, siêu âm tim, xét nghiệm men và dấu ấn sinh học của tim.
Dựa trên những biểu hiện lâm sàng và những xét nghiệm quan trọng, cần chẩn đoán phân biệt với các tình trạng bệnh lý khác như: Bóc tách động mạch chủ; thuyên tắc động mạch phổi; thủng dạ dày do loét; tràn khí màng phổi; thủng thực quản gây viêm trung thất; viêm màng ngoài tim...
Các biện pháp điều trị nhồi máu cơ tim cấp ưu việt nhất hiện nay
Tất cả các trường hợp nhồi máu cơ tim đều được đặt trong tình trạng cấp cứu, do vậy, sự lựa chọn phương pháp điều trị bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp nên được quyết định bởi các bác sĩ ở khoa cấp cứu cùng phối hợp với các bác sĩ tim mạch dựa theo các phác đồ của bệnh viện. Nếu ở các bệnh viện không có khả năng can thiệp tim mạch, cần chuyển bệnh nhân đến bệnh viện có khả năng tái tưới máu cơ học cấp cứu gần nhất.
Việc lựa chọn phương pháp điều trị tái tưới máu ngay cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời gian đến viện, tình trạng bệnh nhân, điều kiện trang thiết bị và trình độ của cơ sở y tế. Có 3 biện pháp điều trị tái tưới máu: Điều trị tái tưới máu động mạch vành bằng thuốc tiêu sợi huyết: Can thiệp động mạch vành thì đầu; Phẫu thuật bắc cầu nối chủ-vành cấp cứu.
Lời khuyên của thầy thuốc
Cho dù người bệnh đã được điều trị bằng phương pháp nội khoa, ngoại khoa hay tim mạch can thiệp thì việc thay đổi lối sống như bỏ thuốc lá, ăn thức ăn có ít cholesterol, hạn chế mỡ, muối... điều trị một số bệnh có liên quan như tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu... và tiếp tục sử dụng lâu dài một số thuốc đặc hiệu là hết sức cần thiết để điều trị và phòng ngừa nhồi máu cơ tim tái phát.
Ðối với nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên thì tiêu sợi huyết vẫn là chiến lược điều trị chuẩn mực cho các bệnh nhân đến viện sớm và không có chống chỉ định, đặc biệt ở các cơ sở y tế chưa có khả năng can thiệp động mạch vành qua da cấp cứu. Tuy nhiên, tái tưới máu bằng can thiệp động mạch vành qua da có tiên lượng tốt hơn, đặc biệt là ở những trung tâm tim mạch can thiệp lớn có nhiều kinh nghiệm. Lựa chọn chiến lược điều trị tái tưới máu không chỉ liên quan đến những tiêu chí khoa học mà còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, trang bị máy móc và khả năng của cơ sở y tế. Cuối cùng, tất cả bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp phải được tư vấn kỹ lưỡng để thay đổi lối sống và điều trị các yếu tố nguy cơ. Ða số bệnh nhân phải dùng lâu dài các thuốc aspirin, thuốc chẹn bêta giao cảm, thuốc statin và một thuốc ức chế men chuyển.
PGS.TS. Nguyễn Quang Tuấn