Những năm cuối thế kỷ XX, các nhà khoa học ở Edinburgh (Scotland) đã rất thành công trong một kỹ thuật mang tính đột phá gọi là “nhân bản vô tính”. Không chỉ tạo ra con cừu Dolly bằng cách nhân bản tế bào mà công nghệ này còn tiếp tục được các nhà khoa học nghiên cứu phát triển và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác như điều trị các căn bệnh tâm thần và các bệnh liên quan đến thần kinh. Trong những ngày đầu năm 2012, tờ Guardian – cơ quan ngôn luận của Hoàng gia Anh đã đăng tải kết quả nghiên cứu của công trình khoa học này.
“Sáng tạo” mô não người - Bước đột phá
Hiện tại một trong những cú hích ngoạn mục nhất đã xảy ra tại Trung tâm Y học tái tạo Edinburgh (ECRM), tại đây các nhà khoa học đang miệt mài phát triển ra một thứ công nghệ đã từng được sử dụng để tạo ra cừu Dolly. Trong một chuỗi các thí nghiệm nổi bật, họ đã tạo ra các mô não từ các bệnh nhân đang chìm trong những cơn đau từ bệnh tâm thần phân liệt, lưỡng cực trầm cảm và các chứng bệnh tâm thần khác.
![]() Sóng não ở người bệnh tâm thần. |
Ứng dụng điều trị
Các nhà khoa học đang tập trung vào một loạt các điều kiện thần kinh bao gồm căn bệnh đa xơ cứng, bệnh Parkinson và bệnh thần kinh vận động. Thêm vào đó, các nhà nghiên cứu cũng đang tiến hành nghiên cứu trên bệnh tâm thần phân liệt và lưỡng cực trầm cảm, hai chứng bệnh suy nhược này đã được kích hoạt bởi các trục trặc trong hoạt động não. Dự án thứ hai này được chỉ dẫn bởi GS. Andrew McIntosh từ Bệnh viện Hoàng gia Edinburgh (REH), ông đã bắt tay hợp tác nghiên cứu với ECRM. GS. Andrew McIntosh nói: “Chúng tôi đang tạo ra những loại tế bào não khác nhau được lấy từ các mẫu da từ những người mắc bệnh tâm thần phân liệt và lưỡng cực trầm cảm. Một khi chúng tôi có được những tập hợp này, chúng tôi có thể nhìn đến những loại thuốc tâm lý tiêu chuẩn như lithium, để xem cách thức chúng có thể ảnh hưởng như thế nào đến các tế bào này trong phòng thí nghiệm. Sau đó, chúng ta có thể mường tượng đến các loại thuốc mới”.
Trong quá khứ, các nhà khoa học đã nghiên cứu mô não từ những người mắc bệnh tâm thần phân liệt, và chỉ có thể thông qua một giải pháp là khám nghiệm tử thi. GS. Andrew McIntosh cho biết thêm: “Rất khó khăn để lấy được mô chính dùng trong nghiên cứu mà phải chờ cho đến khi có một bệnh nhân nào đó qua đời. Thậm chí sau đó mô có thể bị ảnh hưởng bởi cái gì đó giết chết chúng, hoặc bị ảnh hưởng từ thuốc mà bệnh nhân hay dùng lúc sinh thời, có lẽ là trong suốt vài thập kỷ. Vì vậy có thể truy nhập vào các tế bào não còn sống là một bước phát triển đáng kể cho sự phát triển của các loại thuốc dùng trong những trường hợp này”. Ngoài ra đang có những triển vọng thử nghiệm nhằm sáng tạo ra những tế bào não từ các bệnh nhân mắc bệnh đa xơ cứng, một căn bệnh hình thành khi hệ miễn dịch ở người kích thích với các tế bào thần kinh ở người đó và bắt đầu hủy hoại các lớp vỏ myelin bảo vệ các sợi mà nó sử dụng trong việc giao tiếp với các tế bào thần kinh khác. Trong nhiều trường hợp, tình trạng này gây ra một sự suy nhược thần kinh nghiêm trọng.
Các tế bào não tạo nên myelin và quấn nó quanh các sợi dây thần kinh được biết đến dưới cái tên là “tế bào ít nhánh”. GS. Charles ffrench-Constant phân tích: “Chúng tôi lấy các mẫu da từ các bệnh nhân MS (không biết đau) rồi tạo ra các “tế bào ít nhánh” từ những mẫu da này và xem xét xem liệu có một sự khác biệt nội tại giữa hai bộ phận của bệnh nhân hay không? Một khi cơ chế được tiết lộ, tuyến đường dẫn đến việc phát triển ra một thế hệ thuốc MS mới sẽ được mở ra. Dù nó mang tính giả thuyết song là một giả thuyết rất hấp dẫn. Điều quan trọng là các tế bào gốc sẽ là phương tiện chứng minh cho chính nó”.
4 ứng dụng cơ bản trong tế bào gốc đã được tìm thấy, đó là kiểm tra độc tính của thuốc; tạo ra các mô cấy ghép, ví dụ như cho bệnh Parkinson; tăng cường nồng độ máu trong tế bào gốc nhằm cải thiện khả năng phòng vệ của các bệnh nhân chống lại các căn bệnh; và tạo ra các mô hình bệnh dẫn đến sự phát triển của các loại thuốc mới, như đã thành công tại Edinburgh trong nghiên cứu tế bào não. GS. Charles Ffrench Constant kết luận: “Đó là lý do giải thích vì sao cuộc cách mạng tế bào gốc lại rất quan trọng, nó cho phép bạn có thể phát triển ra tất cả các phương pháp điều trị mới cho cùng một trường hợp”.
NGUYỄN THANH HẢI (Theo Guardian)