Nhiều người thời đó đã lầm lẫn giữa ông và nhà thơ Trần Đăng Khoa nên ông quyết định đổi tên.
Ông là một trong những nhà văn tham gia đầu tiên khi Hội Văn nghệ Thái Bình được thành lập. Ngày nhỏ, yêu văn và giỏi văn nhưng sau này Nguyễn Khoa Đăng ngày đi dạy học tại Quỳnh Phụ lại không dạy văn mà xin chuyển sang dạy toán và sinh vật bởi ông rất sùng bái văn học nên sợ bản thân không truyền đạt được hết được vẻ đẹp của môn văn nên mới xin chuyển môn dạy. Nhưng ông là một thầy giáo sinh vật không giống ai bởi khi lên lớp thường chuyển đổi nội dung bài giảng sang văn vần để nói về môn sinh vật, giúp học sinh dễ nhớ, dễ thuộc.
Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng.
Nguyễn Khoa Đăng trước khi vào Kiên Giang lập nghiệp ngày còn ở quê nhà trong lĩnh vực văn chương đã viết nhiều thể loại: tản văn, tạp bút, truyện ngắn, truyện vừa và làm thơ. Năm 1966, ông nổi tiếng vì có bài thơ viết cho thiếu nhi Em đi giữa biển vàng in trên báo Thiếu niên Tiền phong và năm 1970 nhạc sĩ Bùi Đình Thảo phổ nhạc, được thiếu nhi cả nước hát. Bài hát có sức sống xuyên thế kỷ và năm 2000 được thiếu nhi cả nước bình chọn là một trong 50 bài hát hay nhất viết cho thiếu nhi thế kỷ 20. Trong chương trình Giai điệu tự hào gần đây, bài hát đã được hội đồng bình luận đánh giá rất cao. Ngoài ra, ông còn có nhiều bài văn được tuyển vào sách giáo khoa như truyện Đi Tết thầy trong văn học lớp 9 và Thẻ mực đêm trăng trong văn học lớp 5 từ năm 1980 đến 1990.
Trong lĩnh vực điện ảnh, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng còn nổi tiếng vì ông là tác giả của 2 kịch bản phim nhựa là Giai điệu xanh năm 1987 và Bài hát đâu chỉ là nốt nhạc năm 1986, những bộ phim có tiếng vang, thu hút nhiều khán giả thời ấy. Năm 1981, Nguyễn Khoa Đăng mới xuất bản tập truyện ngắn đầu tiên: Khói đốt đồng tại Kiên Giang nhưng chỉ trong khoảng 15 năm sau ông đã liên tục cho xuất bản tới gần 20 đầu sách, cả truyện ngắn, truyện vừa, truyện cho thiếu nhi, thơ và truyện danh nhân, truyện vui...
Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1985, mà những người giới thiệu ông vào hội đều là những tên tuổi lớn, người thứ nhất là nhà thơ Chế Lan Viên, còn người thứ hai là nhà văn Vũ Hạnh.
Ngày Nguyễn Khoa Đăng còn công tác ở Hội Văn học - Nghệ thuật Kiên Giang, vị Chủ tịch tỉnh thấy ông là nhà văn, nói năng khúc triết, am hiểu luật pháp nên đã chỉ định đích danh ông tham gia hội thẩm đoàn để bào chữa tại tòa hình sự. Bản thân ông dù không qua ngành luật nhưng qua quá trình cộng tác tại tòa án đã trực tiếp tham gia bào chữa thành công tới 216 vụ án hình sự. Ông được đánh giá là một “luật sư” cũng rất không giống ai khi trước tòa đã dám dẫn thơ của Hồ Xuân Hương để bào chữa cho thân chủ được chỉ định của mình. Đáng chú ý, bài bào chữa của ông đã giúp thân chủ của ông được giảm án.
Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Khoa Đăng.
Khi nghỉ hưu, thay vì trở về quê hương Thái Bình, ông cùng gia đình chuyển về TP. Hồ Chí Minh. Ông vẫn tiếp tục viết văn và được mời giữ lâu dài cho chuyên mục Gỡ rối tơ lòng của một tạp chí chuyên về gia đình. Nhưng vào tuổi cao, ông không được khỏe, chớm mắc nhiều chứng bệnh, nhất là bệnh gút, rồi xương khớp. Cứ vài tháng ông hết đau tay chuyển sang sưng chân, đi lại hết sức khó khăn. Cách đây gần hai chục năm, một buổi trưa đang bình thường nhưng ngủ dậy thấy đau ở hai bàn chân. Tưởng có con côn trùng độc nào đốt, chắc ít sau là khỏi, không ngờ vết đau càng tấy lên. Chỉ sau mấy tiếng, bàn chân đã đỏ rực, sưng tấy, nhức nhối rất khó chịu, đi lại rất khó khăn. Đêm không ngủ được phải dùng thuốc. Cơn đau kéo dài mấy ngày, có người mách, phải dùng thuốc đặc trị như Hoàng thống phong hay Colcicine. Và từ đấy, hàng năm lại một hai lần, quãng cách cứ ngắn dần, kéo dài mấy chục năm. Từ gút chuyển sang xương khớp. Đi lại rất khó khăn. Ban đầu đau quá, ông nghĩ muốn bỏ quách tất cả, nhất là việc viết. Nhưng chỉ nghỉ được một thời gian máu văn chương lại thôi thúc, vừa dứt cơn đau ông lại viết, thậm chí ngay cả khi chân đang sưng tấy nhức nhối. Quả thật, câu chuyện và những nhân vật của ông đã giúp ông giảm cơn đau, thậm chí có lúc mê mải viết ông không còn cảm thấy đau đớn. Vào tuổi 72 ông vẫn miệt mài làm việc. Một buổi đang bên máy tính thì bất ngờ huyết áp lên cao bất thường, người nhà thấy vậy phải đưa ngay ông vào viện. Nhưng sau mấy ngày nằm viện, về nhà thấy sức khỏe trở lại bình thường, ông lại tiếp tục viết.
Trong mười năm trở lại đây, tức là khi ông đã bước vào tuổi 70, không ai ngờ bệnh tật vậy nhưng Nguyễn Khoa Đăng lại chuyển sang viết tiểu thuyết, một việc hoàn toàn mới mẻ với ông. Trong gần 10 năm, từ năm 2009 đến năm 2016 ông viết và xuất bản được tới 5 cuốn tiểu thuyết, là những cuốn: Nước mắt một thời, Hoàng hôn lạnh, Chim mặt người, Mây chiều bảng lảng và Hành trình tìm xác con chim cuốc. Niềm vui của ông đến từ những trang sách. Và đây là những trang viết được ra đời sau những cơn đau, thậm chí ra đời ngay trong những cơn đau. Không chỉ viết mà ông còn luôn được mời đi nơi này nơi khác để giao lưu với bạn đọc.
Sức làm việc của một người tuổi cao và bệnh tật như Nguyễn Khoa Đăng có vẻ còn hơn cả thanh niên. Chỉ tính từ năm 1996 đến 2013, ông viết được tới cả nghìn bài báo, xuất hiện cố định đều kỳ hàng tuần trong các chuyên mục Trao đổi tâm tình, Câu chuyện sư phạm... trên tạp chí Kiến thức gia đình và báo Giáo dục và Thời đại. Năm 2013, ở tuổi 73 ông còn tham gia đóng phim truyền hình dài tới 30 tập, vào vai Ba Chang Sun, trong phim Lấy chồng Hàn. Và ông còn thu xếp dành thời gian để cùng nhà văn Minh Chuyên bên Đài Truyền hình Việt Nam đi nhiều nơi, đến nhiều vùng để tham gia viết kịch bản cho nhiều bộ phim tài liệu.
Cách đây gần một năm, ông gặp một vị bác sĩ công tác bên Bệnh viện Quân y 175, sau khi biết bệnh ông đã cho ông dùng thử một liều thuốc đặc trị xương khớp. May sao chỉ sau có vài liều ông đã đi lại được bình thường. Cách đây mấy tuần, ông khoe: Chân khỏi rồi ông ạ, hiện tôi không phải đi lại bằng gậy nữa, giờ chỉ còn huyết áp cao thôi.
Với một người cao tuổi, bệnh tật như nhà văn Nguyễn Khoa Đăng mà còn giữ được sự lạc quan, niềm tin và sức mạnh vượt qua bệnh tật và tuổi tác để có được những thành quả như vậy chắc chắn là một bài học giúp mọi người có thể thêm niềm tin và nghị lực trong cuộc sống.