98 tuổi, những tổ chức làm về văn hóa ở nước ngoài vẫn mời ông sang giao lưu, thậm chí sẵn sàng chi cả suất vé cho người nhà đi cùng, nhưng vì lý do sức khỏe, gia đình không muốn để ông đi. Đó là điều ông tiếc nhất vì đến lúc này ông vẫn rất minh mẫn, vẫn đến công sở, vẫn viết, vẫn đi nói chuyện. Ông bảo, 7 năm nay tôi là tù binh của gia đình.
70 phần trăm cuộc đời tôi là sự ngẫu nhiên
Trong cuốn phim chân dung mà Hãng phim Tài liệu khoa học Trung ương đang làm về ông, khi được hỏi: Sống gần trọn một thiên niên kỷ, ông kết luận cuộc đời ông thế nào? Ông bảo, 70% cuộc đời tôi là sự ngẫu nhiên, nhưng là sự ngẫu nhiên khoa học. Có người không đồng ý quan điểm này, cho rằng ông duy tâm, nhưng theo lý giải của ông thì không chỉ cuộc đời ông mà tất cả mọi người đều thế. Thậm chí sự ngẫu nhiên khoa học này không chỉ đúng với số phận một con người, mà số phận một dân tộc cũng thế. Chẳng hạn theo ông, tại sao chúng ta là người Việt Nam mà không phải là người Pháp, người Mỹ? Ông Hồ sau 30 năm bôn tẩu về ở hang Pác Bó bị một trận ốm kịch liệt, nếu không được bà lang người Mường chữa khỏi thì cuộc cách mạng tháng Tám liệu có thành công để mang lại nền độc lập cho đất nước?

Vợ chồng nhà văn hóa Hữu Ngọc.
Tôi còn nhớ có lần cố nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc nói rằng, danh xưng của ông chẳng cơ quan nào phong cả, do mọi người gọi mà thành. Thế còn danh xưng của nhà văn hóa Hữu Ngọc thì sao nhỉ? Đem thắc mắc này ra hỏi thì ông bảo, danh xưng đó cũng đến với tôi một cách ngẫu nhiên. Vào quãng năm 1970, người gọi đầu tiên có lẽ là hai ông nhà văn Trần Lê Văn và Nguyễn Đức Hiền, rồi tự nhiên thành quen với mọi người. Khái niệm Nhà văn hóa theo quan niệm của phương Đông phải có hai điều kiện: hiểu biết nhiều về văn hóa và trong cuộc sống cư xử có văn hóa. Nếu xét điều kiện như thế thì mình cũng chưa xứng đáng vì vốn văn hóa đã là bao.
Nhưng cái chuyện mà ông trở thành nhà báo, rồi thành người làm công việc xuất nhập khẩu văn hóa thì đúng là sự ngẫu nhiên 100%. Năm còn là chàng thanh niên 18 tuổi, ông Hữu Ngọc mơ ước được dạy học ở miền núi, lấy một cô gái sơn cước làm vợ, sống cuộc đời giản dị. Nhưng cuộc đời lại không cho ông thực hiện ý nguyện ấy. Tốt nghiệp Diplom trường Bưởi, ông vẫn mang theo mộng làm thầy giáo ở vùng Mường Mán, sống mai danh ẩn tích nên ông chọn thi trường sư phạm. Nhưng rủi thay, ông bị đánh trượt, mà trượt không phải vì học lực kém (đỗ đầu Diplom) mà vì... nhẹ cân. 36 cân sao đủ sức làm thầy giáo. Thế nên bắt buộc ông phải tiếp tục học tú tài ngành triết học, rồi sau đó học luật. Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ông đi dạy học tư. Thế rồi có anh bạn kéo đi dạy ở Vinh và Huế. Đến cách mạng tháng Tám, phái đoàn của ta vào Huế tước kiếm của Bảo Đại, ông Huy Cận gặp ông bảo ở ngoài Bắc đang cần người biết tiếng Pháp và tiếng Anh để tiếp phái đoàn đồng minh, thế là ông trở ra Hà Nội. Sau đó lại có người bạn rủ xuống Nam Định dạy học, rồi bắt đầu làm văn hóa đối ngoại ở đó. Ông được bầu là Chủ tịch Hội Văn hóa kháng chiến Nam Định. Lúc này cần có một tờ báo địch vận bằng tiếng Pháp, mặc dù chưa làm báo bao giờ, nhưng ông nhận làm Tổng biên tập tờ L’Étincelle (Tia sáng - 1946).
Chuyện tình của ông cũng bắt đầu từ đây. Khi ông dạy học ở Nam Định, bà thuở ấy là cô học trò xinh xắn, nhưng phải 7 - 8 năm sau ông bà mới gặp lại nhau trong kháng chiến, khi đó bà làm y tá ở một đơn vị thanh niên xung phong. Nên duyên vợ chồng, bà đi học bác sĩ nhưng rồi lại chuyển sang làm báo Sức khỏe của Bộ Y tế ngay từ những ngày đầu tiên. Thế là ngẫu nhiên hai ông bà lại cùng là nhà báo.
Sau chiến dịch Điện Biên phủ, Bộ Thông tin ra tờ báo đầu tiên: Việt Nam dân chủ (Triết gia Trần Đức Thảo làm Tổng biên tập, ông là Thư ký tòa soạn), nhưng tờ báo chỉ ra được 1 số rồi đóng cửa. Sau đó, ông về Bộ Văn hóa làm Tổng biên tập tờ Le Vietnam en marche (Việt Nam tiến bước bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, từ 1957 - 1963). Mục đích của tờ này là để vận động Pháp thi hành Hiệp nghị Giơnevơ. Khi ông Nguyễn Khắc Viện ở Pháp về phụ trách vấn đề đối ngoại, ông tập hợp các cơ quan làm đối ngoại lại, chia thành 2 mảng: tin tức và nghiên cứu. Ông Viện về hưu thì ông tiếp tục làm Tổng biên tập tờ Nghiên cứu Việt Nam.
Cuộc đời làm báo của ông thế mà cũng có lúc gặp truân chuyên. Năm 1963 bắt đầu có chủ nghĩa xét lại, ông bị coi là xét lại, phải đi học trường Nguyễn Ái Quốc 6 tháng để “ăn năn tội lỗi”. Những lý do ông bị đấu tố là: Chỉ đi các nước Đông Âu mà không đi các nước phe ta. Hay có một bài báo ca ngợi anh diễn viên xiếc dạy hổ, họ đấu tố bảo là ám chỉ Mao Trạch Đông vì ông Mao từng nói đế quốc là con hổ giấy. Họ cho ông là lập trường bấp bênh, hổ dữ như thế mà nói là thuần được, nghĩa là cho rằng giai cấp tư sản thay đổi được à? Đận đó ông mất chức Tổng biên tập, về làm biên tập cho tờ Báo ảnh Việt Nam.
Cũng từ việc làm báo và cộng tác với một vài tờ báo, ông đã công bố hàng ngàn bài báo, hàng chục tập sách bằng tiếng Anh, Pháp, Việt về văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Tây: Lang thang với văn hóa Việt, Phác thảo chân dung văn hóa Pháp, Hồ sơ văn hóa Mỹ, Mảnh trời Bắc Âu (văn hóa Thụy Điển), Văn hóa Nhật Bản, Văn hóa Lào, Đường thi bốn ngữ (Pháp, Anh, Trung Quốc, Việt Nam)... Kết quả của 16 năm cộng tác mục Sổ tay văn hóa của báo Sức khỏe&Đời sống, ông ra được cuốn sách Lãng du trong văn hóa Việt, đã tái bản cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Trong quá trình giao lưu với nhiều nền văn hóa, ông đã nhập khẩu được những cuốn có giá trị: Từ điển văn hóa sân khấu thế giới, Từ điển 600 tác phẩm văn hóa gốc La tinh, Hy Lạp... Ông bảo, trong quá trình xuất khẩu văn hóa, ông muốn làm cho người nước ngoài hiểu Việt Nam có nền văn hóa độc lập. 90% người nước ngoài đều cho rằng văn hóa Việt Nam là văn hóa Trung Quốc, phải làm rõ vấn đề này. Cũng từ đây lại phải cho họ thấy thành phần thứ hai trong văn hóa Việt Nam là văn hóa phương Tây qua 80 năm Pháp đô hộ. Rồi sau chiến tranh, trong phong trào toàn cầu hóa, văn hóa Việt Nam nằm trong văn hóa toàn cầu. Điều mà ông có ý thức nhấn mạnh là sự tiếp biến văn hóa, nhưng văn hóa dân tộc vẫn là cái gốc. Nhập khẩu phải dựa vào cái tiếp biến của văn hóa chứ không phải cái gì cũng nhập.
Nhiều người yêu mến và quí trọng tài năng gọi ông bằng nhiều cái tên: Người nối nhịp cầu văn hóa Việt Nam với thế giới, Nhà xuất nhập khẩu văn hóa, Cây trầm già, nhưng ông bảo ông thích cách gọi phản ánh đúng công việc suốt đời của ông là giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài và đưa văn hóa nước ngoài vào Việt Nam, nói một cách văn vẻ là xuất nhập khẩu văn hóa.

Nhà văn hóa Hữu Ngọc.
Tôi vẫn đang chơi trò chơi thuở lên 10
98 tuổi, cả hai mắt gần như không nhìn thấy gì, tai nặng nhưng bù lại trí nhớ của ông vẫn cực kỳ minh mẫn. Không phải vì đọc nhiều, viết nhiều khiến thị lực ông giảm sút mà ông đã phải sống chung với đôi mắt “bất trị” gần như cả cuộc đời. Năm lên 4 tuổi ông bị ngã vỡ xương hốc mắt, đáy mắt tổn thương khiến một bên mắt cứ lòa dần đi. Con mắt còn lại phải làm việc gấp đôi khiến số điôp tăng lên từng năm, từng tháng. Gần như chỉ làm việc bằng một con mắt mà không hiểu sao vốn văn hóa Đông - Tây ông nạp vào nhiều đến thế. Từ rất nhiều năm, ông đã đọc rất khó khăn, sách phải đưa gần vào mắt. Còn những ngày này thì ông đọc đã rất vất vả, trang sách phải gí sát vào mắt, chỉ cách một vài phân. Thế nhưng dường như với ông, điều đó không cản trở ông làm việc. Khác với mọi người, 60 tuổi nghỉ hưu, tận hưởng cuộc sống an nhàn. Còn ông, 65 tuổi mới bắt đầu làm Giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn liên tục trong 10 năm. Ông bảo, trong hơn hai chục năm sau đó, khi làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu văn hóa, ông sản xuất sách nhiều nhất và đi quốc tế nhiều nhất. Nói chuyện cho hơn 2 vạn người nghe, trong đó có Vua và Hoàng hậu Thụy Điển, Thống đốc bang Hawai, Tổng thống Brazil, các công ty du lịch... Ông còn làm Chủ tịch Quĩ Văn hóa Việt Nam - Thụy Điển 16 năm, Chủ tịch Quĩ Văn hóa Việt Nam - Đan Mạch 5 năm và hiện là Chủ tịch Quĩ Từ thiện văn hóa.
Hỏi ông rèn luyện thế nào mà có sức làm việc dẻo dai và đạt khối lượng công việc khổng lồ đến thế, ông cười bảo: chữ rèn luyện không đúng với tôi. Ông thích quan niệm của nhà triết học Pháp thế kỷ 17 - 18 Paskan: Cuộc đời là sự tiêu khiển, ai rồi cũng chết. Để khỏi bị cái chết ám ảnh, mỗi người tìm một cách tiêu khiển - người thì chơi bóng đá, người chơi hội họa, còn ông chơi bằng cách đọc và viết. Với ông, nó như một thói quen. Thuở nhỏ, khi 9 - 10 tuổi ông đã hay vẽ lên các tờ báo và viết những bài văn nhỏ. Bây giờ ở tuổi 98, ông vẫn đang tiếp tục chơi trò chơi thuở lên 10.
Tôi vẫn không thể tin một con người khi thanh niên chỉ 36 cân, lúc vạm vỡ nhất cũng chỉ 53 cân, nhưng khối lượng tri thức mà ông cõng trên lưng để đến với nhiều thị trường, giới thiệu với nhiều khách hàng và nhập khẩu nhiều sản phẩm về Việt Nam là con số khổng lồ, gấp hàng trăm lần trọng lượng của ông mà lại không có bí quyết gì trong việc rèn luyện sức khỏe. Nhưng có lẽ những điều mà ông coi là bình thường, là tự nhiên, là chơi thì cũng không phải là điều dễ thực hiện với nhiều người khác. Cách đây độ chục năm, ông vẫn thường đi bộ đi làm. Hình ảnh ông với chiếc túi đeo bên vai, đầu đội mũ vải trên các con phố Hà Nội ấn tượng với rất nhiều người. Có lần bà Lady Borton hỏi: Khi đi bộ ông nghĩ gì? Ông bảo, trong lúc đi nghĩ về công việc, quan sát, có khi vừa đi vừa đếm bước thôi - đó cũng là một cách chơi. Một yếu tố nữa, một thói quen sinh hoạt nhưng tác động không nhỏ đến sức khỏe là ông không nghiện rượu, chè, thuốc lá. Nhưng tôi thì nghĩ, bí quyết của ông là luôn biết giữ sức khỏe tinh thần. Ông không ưa những cái cầu kỳ và hình thức, cuộc sống hàng ngày của ông cực kỳ giản dị và đơn giản.
Bài và ảnh: Tố Lan