Nhà văn Chu Lai: Tôi đã khóc trong đêm hòa bình đầu tiên

02-05-2016 08:30 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Chu Lai không chỉ là một nhà văn với phong cách rất riêng, sừng sững trong dòng văn học bởi tính chân thực, đa dạng, đi đến tận cùng câu chữ để miêu tả góc khuất trong cõi sâu con người...

Chu Lai không chỉ là một nhà văn với phong cách rất riêng, sừng sững trong dòng văn học bởi tính chân thực, đa dạng, đi đến tận cùng câu chữ để miêu tả góc khuất trong cõi sâu con người, ông còn là một người lính từng vào sinh ra tử ở chiến trường. Ðiều đặc biệt ở nhà văn mặc áo lính này còn là ông đã vinh dự làm nhiệm vụ quan trọng ở cửa ngõ Sài Gòn trong thời khắc lịch sử của dân tộc năm 1975. Nhân dịp kỷ niệm 41 năm Ngày Thống nhất đất nước, chúng tôi đã trò chuyện cùng ông, người Ðại đội trưởng Ðại đội đặc công năm nào.

Nhà văn Chu Lai.

PV: Thưa ông! Trong thời khắc lịch sử của đất nước năm 1975, ông đang cầm súng ở đâu?

Nhà văn Chu Lai: Chiều 29/4/1975, Đại đội đặc công của tôi được lệnh phải chiếm bằng được cây Cầu Ghềnh để đại quân ta kéo qua vào Sài Gòn sáng 30/4/1975. Đêm xuống, chúng tôi lặng lẽ xuyên vào màn đêm đen đặc, nhanh chóng chiếm được chiếc cầu huyết mạch. Đêm trôi qua chậm chạp trong sự chờ đợi mòn mỏi của những người lính thiện chiến chốt trên Cầu Ghềnh. Với đặc công, nương vào bóng đêm chiếm một cây cầu không khó nhưng giữ được cầu lại là chuyện không thể. Thế mà 5h sáng vẫn chưa thấy có dấu hiệu của đại quân ta, trong khi xa xa, lấp ló hàng trăm chiếc nón sắt gớm guốc, bóng nhãy của lính Sài Gòn rập rình đánh chiếm cầu trở lại bất cứ lúc nào. Thời gian trôi qua nặng nề như có tiếng cười man dại của thần chết. Trời sáng bừng vẫn bặt vô âm tín. 11 người lính trên cầu nhìn nhau cùng thầm vĩnh biệt ngay trước giờ đại quân kéo đến, ngay trước cửa bình minh, cũng đồng nghĩa với việc lại chuẩn bị âm thầm chấp nhận xóa sổ đơn vị một lần nữa! Giữa lúc tuyệt vọng nhất, bỗng trong lòng đất nghe ầm ì tiếng của xe pháo di chuyển. Cả đại đội cùng hướng mắt về phía Biên Hoà và như ngộp thở khi thấy bụi đỏ cuộn lên giữa thấp thoáng những chiếc xe tăng, cờ đỏ sao vàng kiêu hãnh tung bay trong gió. Khi đại đoàn quân kéo qua, những người lính đặc công gần như ở truồng bôi đen trong tâm trạng chết đi sống lại ấy đã bộc lộ niềm vui sướng tột đỉnh với những trạng thái khác nhau. Người leo lên thành cầu nhảy xuống sông, người đứng bên thành cầu hét toáng lên những câu mà bình thường họ khó có thể hét to đến muốn xé toang lồng ngực được như thế. Còn tôi thì ngồi lịm đi trong làn khói thuốc rê với niềm xúc động không nói thành lời.

Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn sáng 30/4/1975.

PV: Trong ký ức của mình, những dấu ấn chiến tranh nào vẫn còn nguyên vẹn, thưa ông?

Nhà văn Chu Lai: Chưa có một cuộc chiến tranh nào dặc dài như cuộc chiến tranh Việt Nam kháng Mỹ. Cũng chưa có người lính nào chịu nhiều áp lực trận mạc như người lính quân giải phóng, trong đó có tôi. Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, chúng tôi 3 lần ra khỏi rừng với niềm hy vọng thế là xong, là chiến thắng, sẽ không bao giờ có cú mã hồi tức tưởi nữa thì 2 lần tan hoang lặng lẽ, ôm đầu máu trở về rừng. Đó là Mậu Thân 1968 và Hiệp định Paris. Mỗi lần trở về là mỗi lần tan hoang lòng dạ như từ trời cao rơi tõm xuống vực thẳm, bần thần, ngơ ngác, hụt hẫng đến cả mấy tháng trời mới lấy lại được cân bằng. Đó là giai đoạn rất dễ tan rã về ý chí. Chúng tôi lại trở về rừng, moi lại gạo, vũ khí, xẻng cuốc đã vứt xuống đáy sông Sài Gòn âm ẩm tiếng bìm bịp kêu trong lòng nước và tiếng tắc kè khàn khàn đếm tuổi nẫu ruột trên chạc cây để tiếp tục làm người cầm súng tử tế. Chính vì vậy mà vào đợt tổng tiến công 30/4/1975 thì người lính bỗng trở thành nửa tin nửa ngờ, sự xuống đường cũng không ắp đầy khát vọng như những lần trước, không ngờ lại là lần ra khỏi rừng cuối cùng để làm người chiến thắng.

10 năm làm lính đặc công luôn đối mặt với cái chết, nhưng chưa khi nào tôi phải rơi nước mắt, kể cả hàng trăm lần tự tay chôn đồng đội bởi tôi quan niệm chiến tranh là ngày nào cũng chôn nhau nhưng chưa đến lượt chôn mình. Với tôi, mỗi cái chết của đồng đội đều nặng nề, im lìm, không còn có thể khóc được nữa vì nỗi đau lặn vào trong, vì suy nghĩ nhuốm một chút ngang tàng lính chiến mày chết hôm nay thì mai đến lượt tao, bình thường, khóc khiếc gì, vớ vẩn! Vậy mà đêm hoà bình đầu tiên sau ngày 30/4/1975, vào đến Sài Gòn, một mình trên võng nằm giữa phố đông tôi đã khóc. Khóc cho những đồng đội đêm nay đang nằm cô quạnh giữa rừng già.

5 năm chủ lực, 5 năm là lính đặc công ở vùng ven, tôi và đồng đội đã phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo. Buổi sáng thức dậy, cho hết tư trang vào thùng đại liên Mỹ rồi nhấn chìm xuống lòng sông Sài Gòn để cất giấu, sau đó ngồi ôm súng yên lặng dưới những bụi cây rậm rạp, trong khi dưới sông thì tàu địch tuần tiễu, còn trên bờ, cách chỉ chục mét, là những toán thám báo, biệt kích đối phương lăm lăm súng đi tuần.

PV: Ấn tượng của ông trong ngày đầu tiên chiến tranh kết thúc là gì?

Nhà văn Chu Lai: Bao năm chiến đấu chỉ khao khát một lần được nhìn thấy quân chủ lực của ta, giờ đã thỏa. Rồi lại được thực hiện khát vọng trước đó tưởng không bao giờ thành hiện thực, là được một phút “bay” trên đường 13 trên những chiếc xe máy mượn của dân thì chết cũng... vui, khi bị hút theo đại đoàn quân về Sài Gòn. Đêm ấy, lần đầu tiên sau suốt 10 năm cầm súng, căng mình để sống, để chiến đấu, để tồn tại bằng tất cả bản năng tự vệ, tôi đã bị… ốm. Còn khi đặt chân vào “Sài Gòn - hòn ngọc Viễn Đông”, tôi vô cùng lạ lẫm khi thấy hình ảnh một khuôn mặt Tây đen choán hết bức tường 7 tầng nhà giữa trung tâm thành phố, phía dưới là hàng chữ “Thuốc đánh răng Hynos” mà không biết đấy là hình ảnh của một cơ chế thị trường trong tương lai dân tộc phải đi đến…

PV: Với một người lính chiến, cái chết dường như không có gì là xa lạ. Nhưng với ông, ký ức nào về giây phút từng cận kề tử thần còn găm lại trong trí nhớ đến tận hôm nay?

Nhà văn Chu Lai: Khi đó, tôi rời bỏ đại học, rời bỏ thánh đường sân khấu để xung phong ra trận bằng cả chí trai thời loạn, bằng cả sự lãng mạn, cũng để cho đôi mắt người yêu ở lại được yên tĩnh trong niềm tự hào. Suốt những năm tháng chiến tranh, sự lãng mạn đó chính là điểm tựa để tôi và đồng đội vượt qua bao nhiêu thử thách tưởng như không thể vượt qua nổi. Nếu không lãng mạn tột độ, làm sao tôi có thể sống được 10 năm ròng trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. Sự nguy hiểm, căng thẳng đến mức có lần tôi đã nghĩ đến chuyện tự sát. Ấy là khi đánh đồn Phú Chánh nhiều lần không được. Càng đánh càng hy sinh. Nghĩ mình đằng nào cũng chết, trong khoảnh khắc, tôi đã chạm tay vào dây mìn, nhưng may mắn là cả dây lẫn kíp mìn đều gỉ sét, không nổ. Thì ra chiến cuộc dài quá, cả thiết bị lẫn con người đều bị gỉ sét cả. Và khi đó, nếu không có hơi ấm của đồng đội, của bà con trong ấp chiến lược, của mắt nhìn những cô du kích cổ quấn khăn rằn đang làm mềm đi cả chết chóc thì rồi khồng hiểu mọi  sự sẽ trơn trượt đến đâu…

Lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được trung úy Bùi Quang Thận cắm trên nóc Dinh Độc lập lúc 11 giờ 30 ngày 30/4/1975.

PV: Hết đao binh ông mới cầm cây bút làm vũ khí của mình, để những trải nghiệm trong chiến tranh trở thành một phần quan trọng trong những sáng tác?

Nhà văn Chu Lai: Hồi trẻ, tôi đã đam mê văn chương. Trước khi ra trận, tôi đã từng viết kịch bản. Ra chiến trường, mỗi khi phải về rừng chờ bổ sung quân, tôi cũng viết âm thầm, chỉ để lấp đầy sự im lặng, để cứu rỗi linh hồn sau những trận đánh tơ tướp máu chứ có điều kiện gửi đi in ấn gì đâu. Hết chiến tranh, có cơ hội, tôi lại lao vào viết. Cùng một phần là nghe theo lời khuyên của cha - nhà viết kịch Học Phi. Tôi viết bằng sự dồn nén của bao năm tháng, bằng sự đổ về cuồn cuộn của dòng kỷ niệm… Ký ức ám ảnh đã trải qua trong cuộc chiến in hằn trong tôi, trong từng trang viết làm nên những chi tiết trong các sáng tác của tôi, để bạn đọc thừa nhận “không trải qua hiện thực khốc liệt đó, không thể viết sâu sắc và sinh động đến thế”. Đó là tình yêu chớp nhoáng trong hầm giữa hai đợt pháo với người nữ y tá, là những cái chết của đồng đội, bất ngờ và khốc liệt. Đó là hình ảnh người lính lau súng B41 trước trận đánh bị cướp cò, làm nổ tung một đồng đội ngay trước mắt chúng tôi. Nhìn người lính ruột gan bay hết ra ngoài, máu đỏ nhòe bể nước, đau đớn thắt lòng mà không thể làm gì được, đành đặt bạn nằm xuống, lấp đất lên trong sự câm lặng tận cùng. Những hình ảnh đó bò trong ký ức của tôi suốt bao năm qua, leo vào từng con chữ, từng trang viết với nỗi ám ảnh không nguôi… Hay một người lính đi đánh trận về, hào hứng kể cho các cô du kích nghe chuyện mình rút chốt lựu đạn rồi nhưng thấy địch chết hết, lại nhét vào túi mang về. Kể đến đây, anh chàng vô tình thò tay vào rút quả lựu đạn ra, đúng lúc chiếc mỏ vịt bật mở và anh ra đi như trở về với sự vô tăm vô tích… Đó còn là khi đại đội đặc công phải nhận lệnh đánh địch vào đêm trăng – hoàn toàn trái với nguyên tắc tác chiến cơ bản của binh chủng. Không thể trái lệnh, tôi vẫn phải thực thi dù biết 9 phần chết, một phần sống. Những người lính mang trên lưng trái bộc phá DH10 nặng oằn bò qua những hàng rào đầy mìn tiếp cận về phía lô cốt đối phương, nhưng rồi dưới ánh trăng sáng trắng như ban ngày, họ bị phát hiện rất sớm. Trận ấy hy sinh nhiều đến không đủ võng cáng… Về hậu cứ, tôi xin từ chức, nhưng không xin từ chức về phía sau mà xin xuống một vùng đất ác liệt hơn chưa tìm được người đảm trách…

PV: Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!


Dạ Miên (thực hiện)
Ý kiến của bạn