Niên phả lục của Phó đô Ngự sử Trần Tiến (1709 - 1770) hoàn thành năm 1764, được Nhà xuất bản Văn học in trọn vẹn bản dịch của Nguyễn Đăng Na, năm 2003, ghi rằng, năm 1718, Trần Cảnh đỗ tiến sĩ, một đêm nằm mơ thấy ông nội mình là Trần Phúc, từng được vua Lê ban cho tước Hầu (Dụ Phái Hầu), chức Hàn Lâm viện Thừa chỉ, hiện lên, nói rằng: “Cháu ta đã đỗ đại khoa mà ta vẫn không có chỗ ngồi”. Sáng sau bèn thuật lại cho con cháu và bắt đầu vào việc xây dựng nhà thờ để thờ cụ nội Trần Phúc và cha là Tiến sĩ Trần Thọ, Tả Thị lang bộ Hộ (trước đó từng giữ chức Phó đô Ngự sử rồi thăng Tham tụng, Hình bộ Thượng thư, tức là Tể tướng, phụ trách như bây giờ gọi là khối Nội chính, gồm Bộ Công an, Viện Kiểm sát Tối cao và Toà án Tối cao), đồng thời phối thờ cụ Thượng tổ, tên hiệu là Duệ Thông (không ghi tên khai sinh) mất ngày 04 tháng 02 âm lịch (không rõ năm) và cụ bà (vợ cụ Duệ Thông) tên hiệu là Từ Đức, mất ngày 06 tháng 8 âm lịch (không ghi tên khai sinh và năm mất). Sau khi Trần Tiến qua đời năm 1770 thì Nhà thờ hợp tế vào ngày 13 tháng Giêng hằng năm, thờ 3 vị tiến sĩ mà bia đá cổ ghi là “Ba vị Tướng công” (Trần Thọ, Trần Cảnh, Trần Tiến) và phối thờ các vị liệt tổ từ đó đến nay.
Nhà thờ của dòng họ Trần Điền Trì ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Một trong các tấm bia đá lớn nhất hiện còn dựng tại nhà bia của nhà thờ có tên là Tích hậu lưu quang, bia lập ngày 28 tháng 3 niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (1842) còn ghi rõ (trang 295 - sách Niên phả lục đã dẫn):
“Phụng khảo bài Bi kí ở Miếu thờ Ba vị Tướng công, nay kính thuật lại như sau: Lúc sinh thời, Ba vị Tướng công dạy rằng, các vị tôn linh nhà ta nhiều đời, có vị lấy âm đức nhiều đời để lại cho con cháu, có vị lấy khoa bảng làm vinh hiển tổ tông, muôn vạn đời danh thơm, mà được tế tự không phải dễ dàng. Nói chung, các vị được thờ tại Khám, trong Miếu đều có công đức, đáng được lưu truyền, không được thay đổi”.
Tấm bia trên ghi là miếu, chỉ hậu cung của nhà thờ, được xây dựng từ đó vẫn còn nguyên vẹn cấu trúc. Chuẩn bị cho Đại lễ của dòng họ kỉ niệm 300 năm xây dựng nhà thờ, hậu cung mới được trùng tu như hiện nay, trên nền cũ, trên cơ sở cấu kiện và kiến trúc cũ, chỉ nâng độ cao của nền lên để tránh bị ngập lụt. Trong hậu cung có 3 khám bằng gỗ vàng tâm, có bài vị thờ 3 vị tiến sĩ vẫn còn giữ được từ trước đến nay.
Ba vị tiến sĩ này, người mở đại khoa đầu tiên là Trần Thọ (1639- 1700). Trần Thọ đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670). Trong cuộc đời làm quan của ông, có nhiều năm ở vùng Tuyên Quang và Hưng Hóa, nay là Tuyên Quang và Hà Giang. Chính vì thế, khi làm Tả Thị lang bộ Hộ (Thứ trưởng thứ nhất phụ trách về biên cương và đất đai trong nước), ông đã 2 lần dâng sớ cho vua nhà Thanh để tâu bày về việc quân quan nhà Thanh liên tục lấn chiếm đất ở biên giới Việt - Trung và đòi lại 4 châu đã bị lấn chiếm là Bảo Lạc, Vị Xuyên, Thủy Vĩ và Quỳnh Nhai (trong đó Vị Xuyên còn tên đến ngày nay, thuộc tỉnh biên giới Hà Giang). Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục thì 2 lần Trần Thọ dâng sớ đòi đất, lần thứ nhất vào tháng 5 năm Mậu Thìn (1688) và lần thứ 2 trong chuyến đi sứ năm 1690 -1691, cả 2 lần vua Thanh đều không trả lời. Nhưng chính nhờ những cố gắng đó nên đến thời Nguyễn, nhà Thanh mới trả lại đất cho ta, trong dịp Việt - Thanh - Pháp hoạch định biên giới năm 1890. Khi sống, Trần Thọ được vua ban tước Hầu (Phương Trì Hầu) Đặc tiến Kim tử Vinh Lộc đại phu, Trụ quốc. Khi mất, ông được vua ban cho tên thụy là Trung Cẩn Trần Tướng công.
Con Trần Thọ là Trần Cảnh (1864 - 1758). Trần Cảnh đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (năm 1718), làm quan Tế tửu Quốc tử giám, 2 lần làm Tham tụng, từng lần lượt làm Thượng thư 4 bộ, trong 6 bộ của triều đình (bộ Công, bộ Hộ, bộ Binh, bộ Lễ). Đóng góp có ý nghĩa nhất của Trần Cảnh là khi đương chức Tể tướng, ông xin vua cho về hưu bằng được rồi chiêu mộ dân li tán, sau các cuộc khởi nghĩa thất bại, khai hoang lập làng xóm dọc triền sông Kinh Thầy ngày nay, từ Nam Sách, Chí Linh, Kinh Môn (Hải Dương), Đông Triều (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng), khi đó đều thuộc trấn/lộ Hải Dương, được vua Lê ban chức “Hải Dương khuyến nông sứ”. Trên cơ sở hướng dẫn dân trồng cấy, ông đã soạn bộ sách Minh nông chiêm phả, dâng vua Lê Hiển Tông năm 1749, được coi là Nhà khoa học nông nghiệp đầu tiên của Việt Nam. Bộ sách này đã bị thất lạc, nay chỉ còn rải rác một số chương đoạn. Chính Trần Cảnh (năm 1748) đã tự viết về tác phẩm của mình, trong bài Tựa sách Minh nông chiêm phả hiện còn được chép nguyên văn trong Niên phả lục: “Trên từ cái lớn lao của thiên thời, nhật nguyệt và tinh tú, dưới từ cái nhỏ bé của chim muông, côn trùng, thảo mộc… Tất cả đều ghi chép cực kì đầy đủ và gọt giũa những chữ rườm rà…” (trang 141, sách đã dẫn). Theo nhà Thư mục học lớn nhất Việt Nam, ông Trần Văn Giáp (quê làng Từ Ô, Thanh Miện, Hải Dương) thì ông được cử sang Trung Quốc học 2 năm. Trước khi đi, ông được Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời cơm và dặn rằng: Cố đến các thư viện, nhất là ở các tỉnh của Trung Quốc, tìm xem bộ sách này và những bộ sách quý khác nữa, của cha ông ta có còn “lưu lạc” sang bên đó không? Rấc tiếc là đều không thấy. Trần Cảnh được vua ban tước Công (Diệu Quận Công, Hùng Quận Công) hàm Thái Bảo. Thái Bảo thuộc hàng Tam công là một trong 3 phẩm hàm cao nhất của triều đình. Vua Lê cũng ban cho ông danh vị Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Thượng Trụ quốc. Khi ông mất, Nhà nước tổ chức Quốc tang, triều đình nghỉ việc 3 ngày, vua viết điếu văn, cử quan Tham tụng, Lại bộ Thượng thư Trần Danh Ninh, đọc lời điếu của vua trước linh cữu. Vua ban cho tên thụy là Trung Nhã Trần Tướng Công và cấp cho toàn bộ tiền thờ cúng sau những ngày Quốc tang cho gia đình. Lúc sống, Trần Cảnh đã được thờ tại chùa Dâu, huyện Thuận Thành, Kinh Bắc, sau khi chết được tạc tượng thờ tại Văn chỉ Linh Khê, xã Thanh Quang (Nam Sách, Hải Dương) cùng Mạc Đĩnh Chi và Trần Quốc Tảng. Hiện hai nơi đó vẫn còn bia thờ và tượng thờ.
Con Trần Cảnh là Trần Tiến (1709 - 1770). Trần Tiến đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (năm 1748) làm quan Phó đô Ngự sử, tước Bá (Sách Huân Bá), sau thăng Lễ bộ Thượng thư. Ông là tác giả các tập sách: Đăng khoa lục sưu giảng, Cát Xuyên tiệp bút, Cát Xuyên thi tập, Niên phả lục, Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi… (Cát Xuyên là tên hiệu của ông), trong đó 3 cuốn sách đến nay vẫn phát huy giá trị trong lịch sử văn hóa và văn chương Việt Nam, là Đăng khoa lục sưu giảng, Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi và Niên phả lục. Ông cũng được coi là người khai sinh ra thể kí tự thuật trong văn xuôi Việt Nam từ năm 1764 với tác phẩm tự thuật Trần Khiêm Đường Niên phả lục (Khiêm Đường là tên tự của ông). Niên phả lục là bộ sách gồm 2 tập kí khác nhau, tập đầu là kí sự chính trị rất đặc sắc, viết về người cha của mình; tập sau ông tự thuật về cuộc đời của ông, cả 2 tập kí đều viết và in chung trong một tập sách dày). Khi mất, ông được vua ban tên thụy là Trung Lượng Trần Tướng Công.
Ngoài 3 vị tiến sĩ trên cùng với các liệt tổ của dòng họ còn có 3 danh nhân nữa - đó là: Trần Trợ (con Trần Tiến) làm quan đến Viên ngoại lang bộ Lại. Trợ giáo Thái tử (dạy con vua Lê học nên gọi là cụ Trợ) tên khai sinh là Trần Quí cũng gọi là Trần Nha nên lịch sử văn học ghi là Trần Quí Nha, tác giả tập kí Tục biên Công dư tiệp kí (viết tiếp Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề, thành một tập riêng). Tác phẩm được dịch in nhiều lần; Trần Đĩnh (cháu gọi Trần Tiến là bác ruột) là quan Thủ lệnh trấn Hải Dương (tương đương như tỉnh đội trưởng Hải Dương hiện nay), tước Bá (Côn Lĩnh Bá), đã cùng Tổng trấn Kinh Bắc Trần Quang Châu hộ giá vua Lê Chiêu Thống khi vị vua này còn chưa đi cầu cứu nhà Thanh. Đến năm Tự Đức thứ 12 (năm 1859) được thờ tại Đền Trung Liệt, Hà Nội cùng với 5 anh em con cháu. Chắt Trần Tiến là Trần Tấn, tham gia phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi nhà Nguyễn, là tiểu tướng của Nguyễn Thiện Thuật, đã hi sinh ngày 07 tháng 02 âm lịch năm 1887 khi bảo vệ căn cứ Bãi Sậy, chống giặc Pháp càn. Tất cả các sự tích trên đều được ghi lại trong bộ sách Địa chí Hải Dương của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Hải Dương, xuất bản và phát hành tháng 01 năm 2009.
Một nhà thờ của một dòng họ đã trải qua tròn 300 năm với những dấu ấn lịch sử và văn hóa như trên cùng với cờ biển vua ban và 35 đạo sắc còn giữ được nguyên vẹn của thời Lê quả thực là một di sản rất quý hiếm và có nhiều giá trị. Những giá trị đó từng được vun đắp của các thế hệ con cháu (đã qua 23 đời) và ngày nay lại được phát huy hơn nữa do sự quan tâm của các cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch cùng Bảo tàng tỉnh Hải Dương trong việc bảo tồn các giá trị vật thể và phi vật thể để giáo dục chủ nghĩa yêu nước và nhân văn nhằm xây dựng những phẩm chất tốt đẹp của con người mới trên vùng đất nổi tiếng văn hiến của xứ Đông xưa, làm giàu thêm những giá trị tinh thần của nhân dân và của đất nước.