Nhà thơ Tế Hanh: “Hồn tôi mở trong cánh buồm lộng gió”

17-07-2009 15:41 | Văn hóa – Giải trí
google news

Nhà thơ Tế Hanh vừa qua đời hồi 12 giờ ngày 16/7 sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não. Ông sinh năm 1921 tại Quảng Ngãi, hưởng thọ 88 tuổi. Ông là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới và sau Cách mạng tháng Tám.

Nhà thơ Tế Hanh vừa qua đời hồi 12 giờ ngày 16/7 sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não. Ông sinh năm 1921 tại Quảng Ngãi, hưởng thọ 88 tuổi. Ông là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới và sau Cách mạng tháng Tám. Tập thơ Nghẹn ngào của ông giành giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn từ khi ông còn rất trẻ. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.

Nhà thơ Tế Hanh khi còn trẻ. 

Có thể nói, thơ Tế Hanh thâm nhập và "đóng kén" trong thế hệ chúng tôi, thế hệ của những ngày đầu hòa bình và khi hai miền đất nước chia cắt - chủ yếu là những bài được chọn trong sách giáo khoa: Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến/ Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển/ Vẫn trở về lưu luyến bên sông (Nhớ con sông quê hương).

Không khí hòa bình náo nức xây dựng sản xuất trong thơ ông vào chúng tôi háo hức làm sao: Bạn ơi rót nữa cho tôi/ Tôi không muốn ngủ núi đồi trăng trong/ Nông trường ta rộng mênh mông/ Trăng lên trăng lặn vẫn không ra ngoài (Nông trường cà phê).

Thơ Tế Hanh dễ nhận được sự chia sẻ đồng điệu của bạn đọc. Thơ ông không đóng kín trong những suy tư mà cộng hưởng với hiện thực đời sống. Cuộc sống với trăm nghìn dạng vẻ đi qua trái tim ông rung lên những sắc thái mới bởi sự chân thành. Bạn đọc tiếp nhận và trong từng khoảnh khắc của lòng mình một phần tâm tư được đánh thức trong sự ẩn chứa Mùa thu đi qua còn gửi lại/ Một ít vàng trong nắng trong cây/ Một ít buồn trong gió trong mây/ Một ít vui trên môi người thiếu nữ (Bài thơ tình Hàng Châu), của sự hẫng hụt trong sự mất mát: Cúi đầu từ biệt mẹ/ Từ biệt cả làng quê/ Quê mẹ không còn mẹ/ Bao giờ con lại về (Quê mẹ).

Trong những ngày đi sơ tán về làng quê ở ngoại thị Bắc Ninh những năm chống Mỹ, tôi được một anh bạn thơ cung cấp một số tác phẩm của những tác giả tiền chiến dường như thích thú đến mức chép lại cả tập thơ của ông. Cái bơ vơ tâm hồn cô lẻ của ông bám riết tôi: Tôi thấy lòng thương những chiếc tàu/ Ngàn đời không đủ sức đi mau/ Có chi vương víu trong hơi máy/ Mấy chiếc toa tàu nặng khổ đau (Những ngày nghỉ học).

Sau này khi có điều kiện gặp Tế Hanh, tôi mới nhận ra con người và thơ ông như tôi hình dung không khác nhau là mấy. Chỉ có điều, cái ông nhà thơ này luôn có trái tim rộng mở mà trong giao tiếp cứ thu mình lại như là... chỉ có nội tâm thôi. Âu cũng là cái tạng của mỗi người. Tế Hanh nói nhỏ nhẹ, đọc thơ nhỏ nhẹ, cái giọng đọc thơ trầm ấm miền Trung cứ ám ảnh tôi mãi. Ông không thích chỗ đông người nhưng thiết tha yêu người, yêu đời đến thế.

Quê hương trong thơ Tế Hanh là một mảng lớn trong tác phẩm thơ của ông. Từ quê hương ban đầu mà ông giãi bày: Làng tôi vốn làm nghề chài lưới/ Nước bao vây cách biển nửa ngày sông trong sự chật hẹp của không gian thời gian và tâm hồn thơ cô lẻ đến con sông quê hương khi hồi nhớ thuở nào: Quê hương ơi lòng tôi cũng như sông/ Tình Bắc Nam chung chảy một dòng/ Không ghềnh thác nào ngăn cản được.

Và quê hương rất đỗi thân thương trong tâm thức ông quyện chặt với những vui buồn trong biện chứng tâm hồn tác giả: Nơi rất thực và cũng là rất mộng/ Của đời tôi yêu biển tự bao giờ/ Trong giấc ngủ vẫn nghe thầm tiếng sóng/ Như tiếng lòng giục giã những lời thơ (Tiếng sóng).

Suốt cuộc đời Tế Hanh đã thực hiện được trọn vẹn ước nguyện ấy. Tiếng sóng lòng ông hòa tiếng sóng biển tạo nên khát vọng trong thơ, ông đi theo cách mạng, chấp nhận mọi gian khổ hy sinh, mở rộng lòng mình cũng là thực hiện ước vọng giải phóng quê hương: Hồn tôi mở trong cánh buồm lộng gió/ Đi, ta đi, đến những chân trời xa/ Tim tôi thả neo trong bến đỗ/ Về ta về, trở lại quê nhà (Tiếng sóng).

Tình cảm quê hương trong riêng - chung chi phối các tác giả trong giai đoạn này "từ Thung lũng đau thương đến Cánh đồng vui" và mở rộng tình cảm đất nước trong cách chia và giải phóng thống nhất đất nước (trong đó có Tế Hanh).

Thơ Tế Hanh không chỉ thấm vào thế hệ chúng tôi những xúc cảm của lòng yêu quê hương mà còn là cái dịu nhẹ, da diết tình yêu bàng bạc mỗi độ thu về. Thật vậy, tôi nhớ thơ ông khi cảm cái se lạnh gió heo may, của nắng thu dịu nhẹ không chói gắt như nắng sang hè, không khí mơ hồ sương khói... Ở vào tuổi chúng tôi khi bước vào tuổi "tri thiên mệnh" một thuở chắc không thể nào quên được những câu thơ như thế này của Tế Hanh: Chiêm bao bừng tỉnh giấc/ Biết là em đã xa/ Trên tường một tia nắng/ Biết là đêm đã qua (Chiêm bao)... Em nhìn lên vòm cây gió thổi/ Lá như môi thầm thĩ gọi anh về (Vườn xưa)...

Trong tâm hồn Tế Hanh "như chất mặn thấm vào như muối đọng" - khi tiếng thơ ông cất lên lưu lại trong lòng người bền dai lắm. Tế Hanh không kỳ khu trong câu chữ, trong cấu tứ mà giọng thơ ông cứ tuôn trào như ông cảm, như ông nghĩ. Chính sự chân thành này trong mộng mơ đã làm nên giọng điệu Tế Hanh và có được đông đảo bạn đọc yêu mến thơ ông.

Gần 50 năm làm thơ, Tế Hanh đã đi qua gần một thế kỷ bão táp và đóng góp sự nghiệp của mình vào nền thơ Việt Nam hiện đại. Cái mong muốn lớn nhất của Tế Hanh - cũng như của bất cứ nhà thơ nào - khi ông Viết sinh nhật sáu mươi (1981) là: Khi tôi bảy mươi, tám mươi tuổi người ta còn đọc thơ tôi, cũng là cái day dứt của ông khi viết Bài thơ nhỏ về nhà thơ lớn nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh thi hào Nguyễn Du những năm 1964-1965 của thế kỷ trước: Hãy đi con đường vào trái tim bạn đọc/ Người ta có thể quên tên người làm thơ, nhưng đừng để quên thơ. Thơ ông đến với cuộc đời bằng sự chân thành và tài năng của nhà thơ đối với nhân dân, đất nước mà ông yêu quý. Ngoài khối lượng thơ dịch đồ sộ của ông với di sản thơ thế giới, chúng ta có được một giọng thơ Tế Hanh buồn vui, mộng mơ cùng đời sống với những trải nghiệm về nhân thế của ông.

Nguyễn Thanh Kim


Ý kiến của bạn