Đó là kết luận trong một nghiên cứu gần đây của 2 tác giả đến từ Đại học Quốc gia Hà Nội là TS. Vũ Hoàng Linh (Trường Đại học Việt Nhật), và TS. Trần Quang Tuyến (Khoa Quốc tế).
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí quốc tế có tên International Journal of Educational Development thuộc nhà xuất bản Elsevier, trong danh mục ISI (SSCI) và xếp hạng Q1 theo Scimago.
Nội dung chính của nghiên cứu là phân tích tác động nhân quả của "quy mô, thứ tự sinh và cấu trúc giới tính tới kết quả học tập của trẻ ở Việt Nam".
Việc tìm mối quan hệ nhân quả giữa tình trạng gia đình đông con, sinh con trai hay con gái với kết quả học tập của trẻ được quan tâm nhiều nhưng trên thực tế các phát hiện nghiên cứu thường không thống nhất.
Ví dụ, tình trạng đẻ đông con làm giảm kết quả học tập ở một số nước, nhưng lại tăng kết quả học tập hoặc không có tác động ở các nước khác. Theo Joshua Angist, nhà Kinh tế đồng đạt giải Nobel năm 2021 thì sự khác biệt này có thể do sự thiếu vắng phương pháp phân tích nhân quả (causal effects).
Trong hoàn cảnh thông thường, việc đẻ thêm con có thể khiến các gia đình phải giảm đầu tư vào giáo dục cho mỗi người con, dẫn tới kết quả giáo dục của trẻ kém hơn.
Nhận định về "sự đánh đổi giữa số lượng và chất lượng con cái" được nhà kinh tế được giải thưởng Nobel năm 1992 Gary Becker (1930-2014) lần đầu đưa ra vào năm 1973. Thế nhưng việc đo lường không dễ, vì hành động, tác động này cũng có thể được bù trừ bởi những hành động khác.
Ví dụ, có gia đình đông con nhưng vẫn có thể đầu tư cho con học tốt nhờ nỗ lực gia tăng thu nhập hoặc tiết kiệm, cắt giảm khoản chi tiêu khác. Mặt khác, các gia đình đông con cũng có lợi thế quy mô khi trẻ trong cùng một nhà chia sẻ sách vở và đồ dùng học tập, và sự tương tác giữa bọn trẻ trong gia đình như việc trẻ lớn giúp trẻ nhỏ học bài cũng có thể có tác động tích cực tới kết quả học tập.
Để trả lời cho câu hỏi "số trẻ em, thứ tự sinh và cấu trúc giới tính của trẻ có ảnh hưởng tới kết quả học tập hay không?", TS Trần Quang Tuyến và TS Vũ Hoàng Linh đã phân tích nhân quả, sử dụng dữ liệu từ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
Trong nghiên cứu này, kết quả học tập được đo bằng số năm đi học của trẻ và việc đi học của trẻ. Các biến số kiểm soát bao gồm tuổi, giới tính, sắc tộc, giáo dục của mẹ, tuổi của mẹ lúc sinh trẻ, và điều kiện kinh tế của hộ, đặc điểm vùng miền, thành thị và nông thôn.
Trên thực tế, có một số bố mẹ thích đẻ ít con để có nhiều nguồn lực đầu tư cho trẻ hơn, và họ là nhóm thích chất lượng hơn số lượng. Nhiều bố mẹ khác thích nhiều con lại thường là các hộ nghèo và do vậy ít đầu tư cho con hơn, làm cho chất lượng giáo dục của trẻ bị giảm sút.
Tương tự, cấu trúc giới tính cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Thường ở các nước Châu Á và Việt Nam, việc ưa thích con trai hơn gái có thể khiến các gia đình đẻ thêm cho tới khi có con trai. Hệ quả là các gia đình thường đầu tư cho con trai nhiều hơn gái.
Nghiên cứu này cho thấy, quy mô số trẻ trong gia đình có tác động tiêu cực tới kết quả học tập của trẻ. Cụ thể, cha mẹ đẻ thêm 1 con là giảm số năm đi học 0,16 năm.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy cấu trúc giới tính có tác động tới kết quả học tập của trẻ. Gia đình có thêm 1 bé trai làm giảm kết quả học tập cho cả bé trai và gái.
Nghiên cứu cũng cho thấy thứ tự sinh có tác động tiêu cực tới kết quả học tập. Nói cách khác, các bé càng sinh sau càng có kết quả học tập thấp hơn. So với trẻ đầu, trẻ thứ 2 có số năm đi học ít hơn 0,12 năm và trẻ thứ 3 ít hơn 0,14 năm.
Đặc biệt, khi một gia đình cố gắng sinh thêm con trai có tác động tiêu cực tới kết quả học tập của trẻ, giảm khả năng đi học là 12% và giảm số năm đi học là nửa năm.
Ngoài ra, nghiên cứu này cũng khẳng định rõ trẻ em nhóm dân tộc thiểu số có kết quả học tập thấp hơn, thể hiện ở cả việc đi học và số năm đi học. Hơn nữa, các trẻ em ở các gia đình chủ hộ là nữ thường có kết quả học tập thấp hơn.
Thường ở Việt Nam, các chủ hộ nữ thường là các chủ hộ ly dị hoặc chồng mất, và do vậy hoàn cảnh kinh tế thường khó khăn khiến họ đầu tư ít hơn cho con cái. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy giáo dục của mẹ và điều kiện kinh tế của gia đình là những nhân tố quan trọng quyết định tới kết quả học tập của con.
Như kỳ vọng, giáo dục của mẹ và điều kiện kinh tế của gia đình là những nhân tố quan trọng quyết định tới kết quả học tập của con.
Nghiên cứu này cung cấp những hàm ý chính sách quan trọng. Đây là chủ đề nghiên cứu có ý nghĩa hữu ích cho chính sách giáo dục và nhân lực, đặc biệt ở các nước đang phát triển khi mà nguồn lực của các hộ gia đình cũng như cách chính sách phúc lợi còn hạn chế.
Nghiên cứu cũng là một khám phá nhằm cung cấp thêm những bằng chứng khoa học tin cậy, làm sáng tỏ thêm những tranh luận về việc số lượng trẻ trong gia đình và cấu trúc giới tính, thứ tự sinh sẽ ảnh hưởng ra sao tới kết quả học tập của trẻ sau này.