Ông là một người tích cực áp dụng tư tưởng duy lý phương Tây, phê phán một cách hài hước thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp. Theo đánh giá của nhiều người thì Phan Khôi là một trong số ít nhà báo tiếp thu nhiều luồng tư tương mới, theo hướng đa văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa của cả phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây như Anh, Pháp,...
Phan Khôi sinh ngày 6/10/1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là cháu ngoại của Tổng đốc Hoàng Diệu. Năm 20 tuổi, ông ra Hà Nội, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và làm việc cho tạp chí Đăng cổ tùng báo. Khi tờ tạp chí bị cấm ông về Nam Định rồi về Hải Phòng ẩn náu lánh nạn. Ít lâu sau, ông lén về Quảng Nam hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng. Trong một cuộc biểu tình đòi giảm thuế, tức vụ Trung Kỳ dân biến, ông bị bắt và giam tại nhà tù Quảng Nam đến năm 1914 thì được ân xá.
Ra khỏi tù, ông lại về Hà Nội viết cho tờ báo Nam Phong. Vì bất bình với Phạm Quỳnh, ông bỏ Hà Nội vào Sài Gòn viết cho tờ Lục tỉnh Tân văn. Năm 1920, ông lại trở ra Hà Nội viết cho báo Thực nghiệp dân báo và báo Hữu Thanh. Năm 1928, cả hai tờ báo bị chính quyền thực dân Pháp đóng cửa, ông lại trở vào Sài Gòn viết cho tờ Thần Chung và tờ Phụ nữ Tân văn. Năm 1931, Phan Khôi lại trở ra Hà Nội viết cho tờ Phụ nữ thời đàm. 5 năm sau (1936), ông vào Huế viết cho tờ Tràng An và sau đấy xin phép xuất bản tờ Sông Hương. Năm 1939, Sông Hương bị đóng cửa, Phan Khôi lại trở vào Sài Gòn dạy học chữ Hán và viết tiểu thuyết. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời từ Quảng Nam ra Hà Nội tham gia kháng chiến với cương vị một nhà văn hóa. Hòa bình lập lại 1954, Phan Khôi về Hà Nội cùng với các văn nghệ sĩ khác.
Phan Khôi - Nhà báo tiếng Việt tài năng đầu tiên.
Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên, từng làm giám khảo trong các giải văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm tương đối đồ sộ như: Bàn về tế giao (1918); Tình già (thơ mới - 1932); Chương Dân thi thoại (1936); Trở vỏ lửa ra (1939); Tìm tòi trong tiếng Việt (1950); Chủ nghĩa Mác và ngôn ngữ (dịch của Stalin, 1951); Việt ngữ nghiên cứu (1955); Lỗ Tấn (dịch năm 1957); Ngẫu cảm (thơ chữ Hán); Viếng mộ ông Lê Chất (thơ chữ Hán); Ông Năm chuột (truyện ngắn),... Ông cũng là một trong những người đầu tiên dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt.
Chỉ xét riêng về khía cạnh báo chí và văn hóa, chúng ta có thể thấy những năm đầu thế XX là thời kỳ mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh gọi là Cuộc biến thiên vĩ đại, tức là thời kỳ giao lưu và tiếp biến văn hóa Đông - Tây diễn ra mau lẹ, đều khắp trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có người còn cho rằng đây chính là giai đoạn xảy ra cuộc xâm lăng văn hóa của phương Tây đối với phương Đông, trong đó có Việt Nam. Lúc này, văn hóa phương Đông đang đứng trước thách thức ghê gớm hoặc là bị phương Tây thôn tính hoặc là chấp nhận những tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Tây để làm mới mình theo xu hướng hòa nhập vào dòng chảy của lịch sử và thời đại.
Trong cơn nguy biến ấy, chàng thanh niên Phan Khôi là một trong những người đi tiên phong trong quá trình Duy tân, mà bây giờ chúng ta gọi là Đổi mới để tồn tại và phát triển đất nước nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng. Qua gần một chục tờ báo mà ông đã cộng tác và làm chủ bút với hàng trăm bài nghị luận, bút chiến bằng một văn phong mạnh mẽ, đầy ấn tượng vào những năm đầu của thế kỷ XX, ông đã tạo tiền đề tư tưởng cần thiết cho các cuộc cách tân hiện đại hóa của văn hóa và văn học Việt Nam ngay lúc bấy giờ cũng như sau này. Vì thế, có thể nói Phan Khôi là một trong những người mở đường cho khoa phê bình văn học ở nước ta theo hướng dân chủ và hội nhập Đông - Tây, một hoạt động không thể thiếu vắng trong một nền văn học mới, đầy biến động của thời kỳ hiện đại.
Về khía cạnh báo chí, ông là một trong những bậc thầy của thể loại báo chí chính luận về văn hóa, văn nghệ. Chính ông là người đã chỉ ra rằng đằng sau cuộc xâm lăng chính trị, lãnh thổ của thực dân Pháp là cuộc xâm lăng về văn hóa. Phan Khôi có bài báo về vấn đề này: Tư tưởng của Tây phương và Đông phương. Đây là vấn đề cốt lõi dẫn đến cuộc đụng độ nảy lửa giữa hai luồng tư tưởng, hai hệ hình văn hóa Đông - Tây. Bằng những lập luận khoa học và sắc bén, Phan Khôi đã chỉ ra 3 điểm khác nhau cơ bản của phương Đông và phương Tây với sự phân tích rõ ràng, dễ hiểu đối với công chúng đông đảo: 1/ Tây phương chuộng khoa học, Đông phương chuộng huyền học; 2/ Tây phương trọng tự chủ, Đông phương trọng thống thuộc; 3/ Tây phương quý tấn thủ, Đông phương quý an phận.
Trong bài báo chính luận thuộc loại đặc sắc của Phan Khôi có nhan đề Thi văn với thời đại, ông đã bàn về mối tương quan giữa văn chương và cuộc sống. Theo quan điểm cá nhân, Phan Khôi nhấn mạnh đến hai yếu tố cơ bản của nghệ thuật văn chương là phải có hai cái đặc sắc: cái đặc sắc thứ nhất là vẻ đẹp (tính thẩm mỹ) của tác phẩm nhằm lôi cuốn, thu hút người đọc và cái đặc sắc thứ hai là phải có dấu ấn của xã hội đương thời với tác giả (tính hiện thực lịch sử). Liệu đấy có phải là yêu cầu không thể thiếu đối với một tác phẩm văn chương đương đại mà cả nhà văn, nhà báo và công chúng đều cần?
Theo ông: Từ xưa đến nay, những tay văn hào bất tử, thường là gồm cả hai mặt đó. Song le, về đường mỹ thuật thì hầu hết mọi người cầm bút viết văn ai ai cũng biết; đến như cái đặc sắc về đường lịch sử thì người ta thường không chú ý đến mà bỏ qua đi... Sự thuộc về lịch sử ấy tức trong bài này muốn nói rõ hơn một chút, gọi là thi văn quan hệ với thời đại.
Ở một bài báo khác có nhan đề Con người và lời nói, Phan Khôi cho rằng, trong xã hội ta ai nấy ít trọng về lời nói mà chỉ chú trọng về con người. Như vậy rất trở ngại cho những cuộc tranh luận học thuật. Vì thế, ông chủ trương Chỉ nên lấy lời nói (ngôn ngữ văn bản biểu đạt - Đ.N.Y) làm cái đối tượng cho sự biện luận chứ không nên lấy con người (tác giả bài viết - Đ.N.Y) làm đối tượng. Vậy trong nghị luận, bút chiến phải kiên quyết dứt bỏ tình cảm và đề cao lý trí.
Trong bài báo Văn chương và văn chương của nhà báo, Phan Khôi xác định rõ ba chuẩn mực về văn chương của nhà báo là Tín, Đạt, Mỹ. Ông cho rằng: Về văn chương, không cứ đặt để làm sao, không cứ viết theo lề lối nào, người làm văn cốt phải giữ ba điều, là: Tín, Đạt, Mỹ. Tín, nghĩa là văn phải cho tin. Trong một bài văn, kể chuyện thì phải cho thật, nói lý thì phải cho đúng; ấy là Tín đó. Đạt, nghĩa là văn cho thông. Cái ý mình nghĩ trong óc thế nào thì viết ra trên giấy cũng thế ấy, làm cho người xem văn mình hiểu đúng như ý mình, mà khỏi hiểu ra đường khác hay là không hiểu chi cả; ấy là thông đó. Mỹ, nghĩa là văn phải cho đẹp. Tín và thông cũng đã gọi là đủ dùng trong sự viết văn, viết báo rồi; song nếu muốn cảm người cho sâu, truyền đi cho xa thì phải cần đến cái mỹ (cái đẹp). Lời cho nhã, ý cho mới, ấy là đẹp đó. Bất kỳ văn nước nào, thời nào, dầu cho ở bên Tây, bên Tàu, hay là đời xưa, đời nay, cũng phải có đủ ba điều ấy thì mới gọi là văn được, mới gọi là văn hữu dụng được. Coi đó thì cái đẹp trong văn chương không phải là cái đáng khinh. Đáng khinh là văn không tín, không thông chỉ có cái đẹp mà thôi; còn như đã tín, đã thông mà lại còn thêm đẹp nữa, thì cái văn ấy ta rất nên quý chuộng.
Nói về văn chương báo chí của nhà báo, Phan Khôi không quá coi trọng quy mô vấn đề lớn hay bé, mà bài báo đề cập tới. Trái lại, ông có vẻ như quan tâm đến những cái được cho là tiểu tiết, chẳng hạn như cách dùng từ, đặt câu, ngắt câu, dấu chấm, dấu phẩy phải đặt sao cho đúng chỗ,... là những cái mà nhà báo không thể xem nhẹ: Về sự chúng ta viết báo bằng chữ quốc ngữ hiện thời đây, chúng tôi muốn cho hẵng tín và thông đi đã, chớ chưa vội nói đến cái đẹp. Điều đó ý chúng tôi cũng hơi giống với quý báo, chỉ khác một chút là chúng tôi nói chưa vội, mà quý báo nói không cần ấy thôi. Chúng tôi nói chưa vội, là vì chữ quốc ngữ của chúng ta ngày nay còn phân vân, chưa nhứt định, chưa có sách mẹo cùng các sách khác thuộc về phép làm văn, thì bước thứ nhứt là phải do chúng ta lập cái nền quốc văn cho vững chãi đã, rồi mới nói đến cái hay cái đẹp được; nghĩa là trước hết chúng ta phải tập viết văn cho đúng mẹo (quy tắc ngữ pháp tiếng Việt - Đ. N.Y), cho thông.
Tính hài hước kết hợp với một tư duy phê phán sắc sảo, đã tạo ra một phong cách chính luận mang dấu ấn thật sự đậm nét Phan Khôi. Châm biếm giễu nhại mà không kém phần thâm thúy, đấy là văn phong bút chiến của Phan Khôi. Với hàng trăm bài báo phê phán những thói hư, tật xấu của con người, những bất công trong xã hội thực dân phong kiến,... đã đưa ông lên vị trí hàng đầu trong việc phát triển thể loại văn châm biếm, trào phúng trong nền văn học cũng như báo chí nước nhà những năm đầu thế kỷ.
Phan Khôi thường dùng những ví dụ cụ thể lấy trong đời sống thường ngày của người dân để giải thích các phạm trù, quy luật, làm cho các vấn đề trừu tượng trở nên cụ thể, sinh động. Nói cách khác, ông đã diễn nôm các lý thuyết cao siêu, trừu tượng để cho công chúng khi đọc có thể hiểu được một cách dễ dàng. Cùng với đó là lối so sánh ví von kết hợp với việc sử dụng các thành ngữ, tục ngữ linh hoạt rất quen thuộc với dân gian,... Vì thế, vấn đề dù lớn đến đâu cũng được ông trình bày thật sự sáng tỏ, dễ hiểu. Âu đấy là một bậc thông tuệ lắm ru!
Người con trai út của nhà văn Phan Khôi là Phan An Sa đã nói về cha mình, rất có lý đại ý là: Một trí thức mới ngoài 20 tuổi đã bị thực dân Pháp bắt bỏ tù 2 lần, một lần 18 tháng, một lần 3 năm, chỉ vì theo chân Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh để hoạt động yêu nước. Một nhà báo suốt thời trai trẻ của mình luôn lăn lộn trên văn đàn duy chỉ nhằm một mục đích phục vụ nhân dân. Một nhân sĩ bỏ lại tất cả ở phía sau để dấn thân cho cuộc kháng chiến 9 năm và cuối cùng, một học giả sức cùng lực kiệt vẫn gắng gượng đóng góp sức mình, mong có được một vườn hoa văn nghệ đầy hương sắc của dân tộc. Một người như vậy không bao giờ đi ngược lại quyền lợi của đồng bào mình.
Phan Khôi là một người yêu nước, thương dân, có tư tưởng dân tộc tiến bộ, là một nhà hoạt động xã hội tích cực, một trí thức lớn, có học vấn uyên thâm, có nghị lực phi thường nguyện suốt đời mang hết sức lực và tài năng của mình phụng sự dân tộc nhằm mục tiêu phát triển và tiến bộ của nhân dân Việt Nam, ra sức giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt mới (hiện đại), một vũ khí quan trong trong cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc ta. Ông là một trong số những người đặt nền móng cho nền báo chí tiếng Việt hiện đại và là những nhà báo suất sắc trong cả vai trò quản lý điều hành cũng như vai trò tác nghiệp báo chí.
Đấy là một tấm gương sáng cho thế hệ các nhà báo chúng ta hôm nay noi theo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam.
…………………..
(1) Theo Ngô Hà, Lịch sử báo chí thành phố, địa chí văn hóa tập 2, Nxb TP. Hồ Chí Minh 1988.