Van tim được ví như những cánh cửa đóng và mở nhịp nhàng theo từng nhịp co bóp của tim, cho phép máu chảy qua các buồng tim theo một chiều nhất định, từ đó máu được phân phối đến khắp các cơ quan trong cơ thể. Cứ mỗi giờ trôi qua lại có hơn 300 lít máu được tim bơm đi nuôi cơ thể. Vì thế, bệnh van tim, cho dù nhẹ hay nặng, đều có thể ảnh hưởng tới chức năng bơm máu của tim, đôi khi gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Có hai dạng thường gặp trong bệnh van tim, đó là bệnh hở van và hẹp van. Một số trường hợp có thể gặp phối hợp cả hẹp và hở van tim và bệnh của nhiều van tim trong cùng một bệnh nhân.
Trên thực tế phòng khám đa số người bệnh mắc các bệnh lý van tim đến bệnh viện khi tình trạng suy tim đã diễn tiến nặng, khiến việc hồi phục diễn ra khó khăn hơn các trường hợp phẫu thuật khi tim chưa suy giảm chức năng.
Nguyên nhân gây bệnh van tim?
Có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh van tin trong đó có van tim khiếm khuyết bẩm sinh. Điều này có nghĩa là van bị lỗi ngay khi còn ở bào thai, thường gặp ở van động mạch chủ. Khuyết tật van tim bẩm sinh thường được chẩn đoán trong thời thơ ấu.
Van 2 lá bị hẹp.
Bệnh cơ tim: Có thể mắc từ trước khi sinh hoặc là biến chứng của bệnh khác trong quá trình phát triển, như sốt do virut hay viêm nội tâm mạc. Bệnh cơ tim làm thay đổi cấu trúc tim và gây hở van.
Nhồi máu cơ tim: Làm tổn thương dây chằng và các trụ cơ gây ra dãn hoặc đứt dây chằng hoặc trụ cơ, gây ra hở van tim.
Tuổi cao: Khi có tuổi, van trở nên kém linh hoạt, dễ bị rách, dễ bị mảng bám canxi tại van (vôi hóa van tim) làm van bị dày lên và xơ cứng, hạn chế lưu lượng máu đi qua van.
Bệnh thấp khớp do liên cầu khuẩn: Thường gặp ở trẻ nhỏ từ 5 đến 15 tuổi. Tổn thương van tim do liên cầu khuẩn còn được gọi là bệnh thấp tim. Tuy nhiên, các triệu chứng của tổn thương van tim thường chỉ xuất hiện khi trẻ đã ở tuổi trưởng thành. Sử dụng kháng sinh đúng và đủ liều để điều trị viêm họng ở trẻ, có thể ngăn ngừa bệnh này.
Một số bệnh khác: Bệnh động mạch vành, tăng huyết áp, phình động mạch chủ, hoặc một số thuốc, phương pháp điều trị (bức xạ) cũng có thể gây hẹp, hở van tim.
Khi nào nguy hiểm?
Tùy tình trạng bệnh mà có biểu hiện triệu chứng lâm sàng khác nhau, tùy loại biểu hiện bệnh như hẹp van, hở van hoặc kết hợp vừa hẹp vừa hở… Theo siêu âm đối với hẹp người ta chia ra làm 4 mức độ dựa vào diện tích mở van đo được gồm: Nhẹ, trung bình, nặng, rất nặng. Đối với hở van siêu âm cũng chia làm 4 mức độ: Hở 1/4 (nhẹ), 2/4 (trung bình), 3/4 (nặng), 4/4(rất nặng).
Bệnh van tim trở nên nguy hiểm khi tình trạng hẹp, hở van tim tiến triển nặng hơn và gây rối loạn chức năng bơm máu của tim. Hậu quả của bệnh van tim là rối loạn nhịp tim, suy tim, đột quỵ não, nếu không được điều trị tốt.
Bệnh van tim nặng, có thể gặp một hoặc nhiều các triệu chứng sau đây:
- Khó thở: Người bệnh có thể cảm nhận được điều này khi hoạt động gắng sức hoặc khi nằm đầu thấp.
- Mệt mỏi, choáng ngất: Người bệnh có thể bị mệt mỏi ngay cả khi làm các công việc hằng ngày. Chóng mặt, choáng ngất có thể xảy ra khi tiến triển của bệnh nặng lên.
- Đánh trống ngực: Người bệnh hồi hộp, kèm theo cảm giác lo lắng có thể xảy ra. Khi đó tim bất chợt đập nhanh hơn bình thường, cũng có khi nó bỏ qua một vài nhịp.
- Đau thắt ngực (đau tim) - Thường gặp khi bị hẹp van động mạch chủ, bởi vì tim của bạn phải làm việc nhiều hơn để bơm máu từ trái tim đi nuôi cơ thể.
- Phù mắt cá chân hoặc bàn chân.
Hầu hết các vấn đề về van tim có thể được điều trị bằng thuốc, can thiệp hay phẫu thuật sửa chữa, thay thế. Tùy vào nguyên nhân gây hở van, các triệu chứng của bệnh (mệt mỏi, khó thở, đau tức ngực), mức độ ảnh hưởng của van đến chức năng co bóp của tim, bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp với từng người bệnh cụ thể.