Nguyên nhân gây u não?

12-08-2015 14:00 | Y học 360
google news

SKĐS - Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hay chủ quan rằng các triệu chứng như đau đầu, mệt mỏi,... là những triệu chứng có thể do thời tiết...

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hay chủ quan rằng các triệu chứng như đau đầu, mệt mỏi,... là những triệu chứng có thể do thời tiết, căng thẳng thần kinh hằng ngày gây ra. Nhưng đáng lo ngại là các triệu chứng này có thể là biểu hiện của bệnh lý u não. Vì thế mà nhiều bệnh nhân không được chẩn đoán và chữa trị kịp thời đã nguy hiểm đến tính mạng.

Hình ảnh u não di căn vùng đỉnh trái, kích thước 1,7 x 2,3cm, có phù não xung quanh.

Có rất nhiều quan điểm về nguyên nhân gây u não, nhưng theo các nhà chuyên môn, nguyên nhân của đa số u não lành tính và u não ác tính chưa được biết rõ. Yếu tố di truyền có thể là một nguy cơ mắc bệnh. Còn có cả các di căn não phát sinh từ căn bệnh ung thư khác nhau của cơ thể.

U não lành tính và u não ác tính nguyên phát không phải là bệnh phổ biến. Tuy nhiên, bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Đối với trẻ em, thường gặp một số loại như u nguyên bào tủy. Ở người lớn, hay gặp u màng não lành tính và u thần kinh đệm được gọi là u nguyên bào thần kinh đệm đa dạng (GBM), các khối u có xu hướng xảy ra ở người lớn sẽ có tần suất mắc bệnh tăng theo tuổi. Di căn não thường gặp hơn u não lành tính và u não ác tính nguyên phát.

Điều trị thế nào?

Dựa trên cơ sở xem xét rất nhiều yếu tố bao gồm khối u nói riêng và tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân mà các bác sĩ quyết định các biện pháp điều trị cho thích hợp.

Đối với bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật, với hầu hết các loại u não (trừ một số khối u nhỏ có thể điều trị xạ, hoặc vị trí không thể phẫu thuật) và có vai trò quan trọng trong chẩn đoán, điều trị và tiên lượng. Phẫu thuật cắt bỏ u lành tính có tính chất quyết định cho kết quả điều trị. Tuy vậy, việc phẫu thuật lấy hết u, khó có thể thực hiện được nếu khối u có ranh giới không rõ hoặc ở vị trí không thuận lợi (như ở thân não, ở vùng đáy não...), khi đó chỉ có thể lấy được một phần khối u hoặc chỉ sinh thiết để làm giải phẫu bệnh.

Phẫu thuật lấy hết u có tiên lượng tốt hơn, cắt bỏ được một phần u giúp cải thiện được các triệu chứng thần kinh, giảm áp lực nội sọ, đồng thời giúp cho chẩn đoán mô bệnh học để có kế hoạch điều trị xạ, hóa chất và tiên lượng.

Phẫu thuật mở sọ cắt bỏ khối u có thể có biến chứng, như tổn thương chức năng thần kinh vùng lân cận, nhiễm khuẩn, thậm chí tử vong khi phẫu thuật.

Đối với bệnh nhân được chỉ định xạ trị sẽ giúp tiêu diệt các tế bào u còn sót lại sau phẫu thuật. Hiện nay, thường áp dụng được đối với trẻ từ 4 tuổi trở lên. Liều xạ, vị trí xạ phụ thuộc vào bản chất mô bệnh học, vị trí và thể tích khối u còn lại sau phẫu thuật. Xạ phẫu bằng tia gamma (gamma knife) chỉ áp dụng được với u nhỏ (đường kính dưới 3cm) và ở vị trí thuận lợi.

Với điều trị hóa chất áp dụng đối với một số loại nhạy cảm với hóa chất, có thể điều trị sau phẫu thuật, trong và sau tia xạ, trước phẫu thuật (đối với khối u lớn, khó phẫu thuật...). Liều lượng, cách dùng hóa chất tùy theo phác đồ phù hợp với bản chất mô bệnh học và lứa tuổi.

Mời độc giả đón đọc phần 2:"Những đấu hiệu đầu tiên của u nãovào lúc 8h ngày 13/8/2015

BS. Trần Văn Học

 

 

 


Ý kiến của bạn