Theo thống kê của Bộ y tế khoảng 10% phụ nữ Việt Nam mắc bệnh sa sinh dục (sa tử cung). Bệnh thường gặp ở những người trong độ tuổi từ 40 – 60 tuổi.
Sa sinh dục là gì?
Sa sinh dục là hiện tượng tử cung sa xuống thấp trong âm đạo hoặc sa hẳn ra ngoài âm hộ. Trên thực tế, không chỉ tử cung mà thường cả bàng quang và trực tràng sa vào trong âm đạo.
Trong trường hợp nặng các tạng trên có thể sa ra ngoài âm hộ. Tuy là bệnh không nguy hiểm tới tính mạng nhưng lại ảnh hưởng tới sinh hoạt, lao động của phụ nữ. Vì bệnh ở vùng kín, cùng tâm lý ngại tìm hiểu, thiếu thông tin, nhiều phụ nữ có thói quen cam chịu, giấu bệnh, chỉ đến khi bệnh chuyển nặng mới tìm đến bác sĩ.
Tử cung thuộc bộ phận sinh dục nữ nằm trong tiểu khung. Nó được giữ tại chỗ bằng lớp cơ và các tổ chức vùng đáy chậu (dàn của phần dưới khung xương chậu), bởi các thành âm đạo và các dây chằng trong bụng và chậu hông. Nếu vì một lý do nào đó, các bộ phận cố định hay giữ tử cung bị giãn, nhão ra và khi áp lực trong ổ bụng tăng (như khi thở, rặn, ho) và sức nặng của tử cung sẽ đẩy, kéo nó tụt dần xuống thấp gây nên sa sinh dục với các mức độ nặng nhẹ khác nhau.
Sa sinh dục (sa tử cung) thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi từ 40 – 60 tuổi
Nguyên nhân sa sinh dục
Nguyên nhân tình trạng sa sinh dục là do hệ thống cơ và dây chằng vùng đáy chậu bị lão hóa, dãn ra, các phủ tạng trong ổ bụng đè lên vùng đáy chậu khiến các cơ quan vùng chậu dễ dàng tụt xuống theo các khe hở tự nhiên của đáy chậu.
Các nguyên nhân và yếu tố thuận lợi thường gặp:
Di truyền, chủng tộc (người da trắng bị nhiều hơn người Á Đông, Châu Phi)
Sinh đẻ
Công việc làm nặng nhọc
Tuổi
Thiếu Estrogen - sau thời kỳ tắt kinh
Béo phì
Tăng áp lực ổn bụng kéo dài (Táo bón, ho mạn tính)
Phẫu thuật (cắt tử cung toàn phần)
Triệu chứng sa sinh dục
- Giai đoạn sớm:
Người bệnh thấy có khối phồng ở vùng âm hộ, khối phồng xuất hiện không thường xuyên, chỉ thấy khi ngồi xổm hoặc khi ho rặn đi cầu. Càng ngày, khối phồng vùng âm hộ càng sa ra ngoài nhiều hơn và thường xuyên hơn. Đến khi tình trạng thật nặng thì khối sa thường trực nằm ở ngoài âm hộ không đẩy vào trong âm đạo được nữa, liên tục cọ xát vào quần áo gây cảm giác vướng víu, khó chịu cho sinh hoạt thường ngày. Đây cũng là lúc tử cung dễ bị viêm loét, hoại tử và phải phẫu thuật cắt bỏ.
Điều đáng nói là với tâm lý e ngại bệnh lý vùng kín, nhiều chị em đành "sống chung" với bệnh và âm thầm chịu đựng.
- Rối loạn tiểu tiện:
Sa sinh dục thường kèm với những rối loạn đi tiểu như tiểu không tự chủ khi gắng sức, nghĩa là khi người bệnh ho, cười nước tiểu chảy ra không kiểm soát, gây mất tự tin và bất tiện trong cuộc sống. Người bệnh thường tiểu gấp, tiểu nhiều lần, không đi hết nước tiểu được, tiểu yếu, hay bị nhiễm trùng đường tiểu
- Rối loạn đại tiện:
Người bệnh không đại tiện hết được, có khi phải dùng tay đẩy cục lồi vào bên trong mới đại tiện được. Ngoài ra có thể gặp táo bón hoặc không kiểm soát được trung tiện.
- Rối loạn về sinh dục:
Âm đạo rộng, không có cảm giác hoặc khối sa làm dương vật không vào âm đạo được. Người bệnh có thể đau, chảy máu khi quan hệ.
Những phụ nữ có tiền sử chuyển dạ kéo dài, đẻ khó, đẻ nhiều lần, đi làm quá sớm sau sinh có nguy cơ bị sa sinh dục
Ai có nguy cơ bị sa sinh dục?
Những người có nguy cơ bị sa sinh dục gồm:
- Những phụ nữ có tiền sử chuyển dạ kéo dài, đẻ khó, đẻ nhiều lần, đi làm quá sớm sau sinh.
- Những phụ nữ lao động nặng như công nhân, nông dân phải làm việc ở tư thế đứng kéo dài, gánh vác nặng làm tăng áp lực lên vùng đáy chậu.
- Sa sinh dục cũng có thể gặp ở phụ nữ chưa sinh đẻ do thể trạng yếu, dây chằng mỏng, tử cung tư thế trung gian nên khi có áp lực mạnh trong bụng sẽ đẩy tử cung xa dần xuống dưới.
Tóm lại: Nhiều người bị sa sinh dục nhưng kinh nguyệt vẫn bình thường và vẫn có khả năng có thai. Nhưng những phụ nữ này thường dễ sẩy thai và đẻ non. Chảy máu, khí hư ra nhiều do cổ tử cung viêm nhiễm, cọ xát khiến người bệnh đi lại khó khăn, hạn chế lao động…Vì thế, sa sinh dục không chỉ gây mất thẩm mỹ vùng kín, mà còn ảnh hưởng nặng nề tới chất lượng cuộc sống. Các bác sĩ khuyên người bệnh khi có bất thường về vùng tầng sinh môn thì nên đi kiểm tra để có được tư vấn, điều trị kịp thời.