Nguyên lý y học hỗ trợ văn chương

26-02-2014 00:13 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - 40 năm trước tôi được đi dự hội nghị người viết trẻ lúc đất nước đang chiến tranh. Chúng tôi không được như các bạn bây giờ, nhiều rụt rè và ngốc nghếch lắm.

40 năm trước tôi được đi dự hội nghị người viết trẻ lúc đất nước đang chiến tranh. Chúng tôi không được như các bạn bây giờ, nhiều rụt rè và ngốc nghếch lắm. Lần này thành nhà văn già, đến làm khách chầu rìa nghe các bạn nói, ngẫm nghĩ thấy nhiều điều hay, lạ, vui.

Các bạn hỏi tôi: Sao lại bỏ nghề y? Có nhiều lý do nhưng chủ yếu tôi thấy mình làm hai nghề thì không đủ thời gian, không đủ sức mà chuyện làm thơ tôi biết mình không bỏ được. Khi nhà thơ Chế Lan Viên, hồi ấy là Trưởng tiểu ban Thơ, cũng là Ủy viên Thường vụ Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khuyên tôi chuyển từ Bộ Y tế về Hội Nhà văn làm việc. Anh Bằng Việt, vốn học luật, hồi đó cũng được khuyên thơ, đã chuyển được ngay. Tôi thì quyến luyến “dao cầu thuyền tán” mất hai năm nữa. Ngành y là ngành tôi cũng say mê lắm. Học hành cặm cụi. Đã tính cho cả đời ở đấy. Hơn nữa, mẹ tôi mong tôi thành bác sĩ giỏi từ lâu lắm rồi. Bây giờ bỏ ngành y mẹ tôi tiếc cho tôi. Tôi chần chừ vì thế. Nhưng ôm cả hai có khi lại chẳng được một.

Các bạn lại hỏi thế học y, làm y ngần ấy năm có ích gì cho nghề thơ không. Câu này thì phải trả lời tỉ mỉ một chút vì cái được cái mất nó xen nhau. Nói tổng quát thì tôi thấy không có thứ kiến thức nào là vô ích cả. Kiến thức bảo vệ sức khỏe thì lại là thứ luôn luôn cần. Chỉ có điều với thời gian mình đã học, đã làm trong ngành y mà dùng để học chuyên về văn chương hay ngoại ngữ thì chắc chắn giúp cho việc làm thơ được nhiều hơn. Những điều đó các bạn tự luận ra được. Nhưng có điều này thì phải kể với các bạn là tôi học được ở các thầy ngành y nhiều nguyên lý y học để làm... văn chương. Nghe trái khoáy, nhưng càng lớn tuổi thì lại càng thấm thía.

Trong giới làm thơ ta, có nhà thơ phàn nàn là các bạn làm thơ trẻ ít có tuyên ngôn trường phái. Phải chủ nghĩa nọ, trường phái kia nó mới sang trọng, mới có cái mà góp vào chợ văn thế giới. Bên cạnh sáng tác là phải đưa ra lý thuyết. Tôi lại nghĩ khác. Mình là anh làm thơ thì cứ hồn nhiên mà viết. Viết theo vui buồn nghĩ ngợi của mình. Viết xong thấy nó hả cái lòng mình là được. Thích cười thì cười, thích khóc thì khóc. Ấy là thơ chứ sao. Còn bài thơ ấy, trời cho sống được và cần xếp vào trường phái nào thì là việc của các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu. Tác giả cũng không nên quá bận tâm về chỗ đứng chỗ ngồi các tác phẩm của mình. Vì cũng có khi họ xếp... sai. Mà sai hay đúng thì nghĩ cho cùng cũng chả nóng lạnh gì đến mình. Bài thơ sống được thì tác giả phải tự coi như mình... chết rồi. Chứ lại cũng xồ ra bàn tán, tuyên ngôn, tranh luận về nó, tôi thấy nó thế nào ấy. Có khi lại bị người xét nét nhìn mình như nhìn bà hàng xóm lắm điều bênh con. Tôi nghĩ thầm thế, không chắc đã đúng nên không dám nói ra. Nhưng hôm nay lại nói ra chính vì tôi có liên hệ với chuyện hành nghề của mấy bậc thầy trong ngành y. Hồi đó khi học ngoại khoa (ở vòng luân khoa) chúng tôi được học hai giáo sư Tôn Thất Tùng và Nguyễn Trinh Cơ. Thầy Tùng phóng khoáng tài tử, thầy Cơ nghiêm cẩn, cần cù. Hai cá tính trái nhau nhưng đều được sinh viên yêu kính. Thầy Cơ giảng lý thuyết hay lắm, vừa hệ thống vừa phong phú trường phái. Thầy Tùng ít nói lý thuyết mà thường nói kinh nghiệm. Kinh nghiệm của chính thầy, chưa có trong sách giáo khoa. Tôi còn nhớ trong một buổi giao ban, sinh viên chuyên khoa báo cáo trường hợp một bệnh nhân nam đau chói khi tiểu tiện. Thầy Tùng hỏi: Cậu có ngửi bàn tay bệnh nhân không? Sinh viên ngớ ra. Các bác sĩ cũng ngơ ngác. GS. Tùng nói tiếp: Nếu thấy mùi khai là sỏi bàng quang đấy! Các cậu có biết vì sao không? Không ai biết à? Sỏi trong bàng quang như bơi trong nước tiểu. Khi đi giải, cuối bãi thì sỏi chạm bàng quang, gây đau chói, bệnh nhân do phản xạ, nó ôm vội lấy chim nó, lại không rửa tay ngay nên tay nó khai chứ sao. Mọi người xôn xao, có tiếng cười, có tiếng hỏi đế: Thế bệnh nhân nữ thì thế nào ạ? Thầy Tùng cũng cười, trả lời: Cái đó hỏi ông Mễ (bác sĩ Mễ chuyên về tiết niệu, học ở Pháp về). Sau này, tôi nghe các bác sĩ ngoại khoa nói: dấu hiệu bàn tay (khai) ấy được xác nhận, cố nhiên trong hoàn cảnh nông thôn ta khi ấy. GS. Tùng có nhiều quan sát triệu chứng như một bổ sung thiết thực cho tiêu chí chẩn đoán (như tư thế đạp chân lên tường của người đau giun chui ống mật). Điều quan trọng đối với thầy thuốc là chữa khỏi bệnh. Ông Tùng cắt gan chẳng giống ai, nhưng cứu được người thì thành phương pháp Tôn Thất Tùng. Làm thơ mà có độc giả, dù chẳng ở trường phái nào thì vẫn thành nhà thơ, có khi thành người khai sinh ra trường phái mới. Đỗ ông Nghè thì hàng tổng mới đi đón chứ cứ đe trước chưa chắc đã (được) thi, mà thi cũng chưa chắc đỗ.

Muốn thơ nhập vào cuộc đời thì nhà thơ phải lặn sâu vào những cảnh ngộ của đời. Nhà thơ trải nghiệm nhiều nông nỗi của đời càng nhiều thì những buồn vui anh giãi bày càng được nhiều người chia sẻ. Bởi những buồn vui ấy nó là cuộc đời anh, tác động vào chính giác quan anh. Nó thật. Nó thường xuyên nhoi nhói trong lòng anh. Không phải chỉ là điều anh nghe nói, anh đọc được trên sách báo, hay là do một cuộc vận động viết, một cuộc thi văn chương thúc đẩy. Mà thúc đẩy từ chính anh. Văn chương đòi sự trải nghiệm Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Người không qua cầu đoạn trường mà viết về nỗi đau đứt ruột, e ngòi bút không tới được lòng người. Người đọc chê thứ văn thương vay khóc mướn là chê ở chỗ ấy. Nguyễn Du viết đời cô Kiều, nhân vật của Trung Hoa, nhưng lòng ông, do từng trải, ông đủ chiêm nghiệm nỗi đau đời để nhập lòng mình vào cảnh ngộ Kiều, hứng chịu xót thương của thân Kiều mà viết nên tiếng kêu đứt ruột. Cốt truyện vay nhưng không phải thương vay. Ông đã thương Kiều như thương mình, thấy nỗi mình trong đời Kiều. Viết Kiều mà lại giật mình, mình lại thương mình xót xa. Trái lại, có người viết về chuyện thật của mình, vừa viết vừa khóc, mà người ta đọc lại cười bảo là không thật. Ấy là cái tài văn chương chưa đến độ. Đúng ra là nỗi từng trải chưa đến độ, chưa đủ sâu sắc. Sống chưa hết nỗi đau, nỗi khổ của chính mình. Mình còn quan liêu với chính mình.

Thầy thuốc từng mắc bệnh nào chắc hẳn hiểu nỗi đau của người mắc bệnh ấy, lại còn rành các sắc thái của triệu chứng, giúp cho chẩn đoán. Đấy là cái học của sự từng trải, lấy mình làm thực nghiệm. Nhưng không ai lại trông cậy vào sự mắc bệnh của mình để làm thầy thuốc. Và cũng không ai mong thế. Cũng như không ai mong đứng trước cọc hành hình để viết tâm lý tử tù. Phải có cách thu nhận vốn sống gián tiếp ở mức độ chân thực nhất sao cho vốn sống ấy tác động thẳng tới giác quan. Hồi đi học, tôi đã thấy giáo sư khoa sản Đinh Văn Thắng khuyên sinh viên phải trực tiếp ngửi khố sản phụ để nhận ra mùi đặc hiệu của một loại vi khuẩn để có thể chọn ngay kháng sinh điều trị mà không cần đợi kháng sinh đồ. Cái mùi ấy tả bằng lời không thể xác định được, nhưng bằng khứu giác chỉ một lần sẽ nhớ mãi. Vị ngọt của mật ong khác vị ngọt của đường, nếm một lần là rõ. Chứ nghe người ta nói không nhận ra đâu. Ngành y, khi máy móc thăm dò hay xét nghiệm chưa phong phú, thầy thuốc chủ yếu nương tựa vào giác quan: nhìn sờ gõ nghe hay vọng văn vấn thiết. Các nhà văn có một thao tác nghiệp vụ là đi thực tế. Ấy là cách tạo cho nhà văn nhập cuộc, mà nhìn sờ gõ nghe cái cuộc đời này. Đúng ra, lúc nào, ở đâu người viết biết cách mở giác quan mình ra mà thu nhận mọi nông nỗi cuộc đời thì đều là đi thực tế. Lắng nghe, nghe cho ra nỗi đau của người khác (đau thể xác, đau tâm hồn) là phẩm chất đầu tiên cần có để thành thầy thuốc giỏi, cũng là con đường để thành nhà văn tài năng. Việc ấy, như một năng khiếu, trời cho cũng chỉ một phần mà chủ yếu phải tự rèn, rèn cả đời người. Rèn cho thành một nếp sống, một bản năng.

 Nhà văn Vũ Quần Phương

Ý kiến của bạn