Nguy hại do viêm mống mắt thể mi

11-02-2020 17:30 | Bệnh thường gặp
google news

SKĐS - Viêm mống mắt thể mi là phần trước của màng bồ đào, do đó, bệnh này còn có tên gọi là viêm màng bồ đào trước.

Bệnh hay tái phát từng đợt, nếu không được điều trị có thể dẫn tới tăng nhãn áp và gây mù loà vĩnh viễn. Viêm mống mắt thể mi là dạng phổ biến nhất chiếm khoảng 3/4 các trường hợp viêm màng bồ đào.

Màng bồ đào là bộ phận ở mắt, gồm 3 phần: mống mắt, thể mi và hắc mạc. Viêm màng bồ đào chỉ viêm mống mắt, thể mi và hắc mạc. Viêm màng bồ đào là một bệnh do nhiều nguyên nhân phức tạp, có khi đan chéo nhau.

Nguyên nhân

Những căn nguyên gây bệnh có thể kể tới gồm các yếu tố tại mắt và các nguyên nhân ở những cơ quan lân cận. Tại mắt có thể do: chấn thương mắt, sang chấn do phẫu thuật, tự kháng nguyên thủy tinh thể (do khuếch tán hoặc rách bao), nhãn viêm giao cảm. Những yếu tố thuộc về các cơ quan lân cận như: viêm giác mạc, viêm củng mạc, nhiễm khuẩn răng, lợi, viêm xoang. Nguyên nhân toàn thân như nhiễm khuẩn trong các bệnh lao, giang mai, bệnh do virus, bệnh do ký sinh trùng, viêm cột sống dính khớp, viêm màng bồ đào, hội chứng Reiter, bệnh sarcoid, bệnh Behcet... Rối loạn chuyển hóa trong các bệnh diabete, goute... Khi đó, viêm màng bồ đào trước chỉ là triệu chứng của một bệnh toàn thân. Tuy nhiên, những yếu tố kể trên chỉ chiếm 20% số ca bệnh, còn đến 80% các trường hợp viêm mống mắt thể mi là chưa rõ nguyên nhân.

Khi có dấu hiệu nghi ngờ, cần khám mắt để phát hiện sớm.

Khi có dấu hiệu nghi ngờ, cần khám mắt để phát hiện sớm.

Dấu hiệu nhận biết

Bệnh nhân bị viêm mống mắt thể mi thường có các biểu hiện sau: đau nhức âm ỉ, đau nhiều hơn về ban đêm. Thị lực giảm sút ở mức vừa phải, cảm giác như có một màn sương mờ che trước mắt, chảy nước mắt, sợ ánh sáng: chói mắt ở những mức độ nặng nhẹ khác nhau tùy từng bệnh nhân. So với viêm loét giác mạc, các triệu chứng có mức độ nhẹ hơn. Biểu hiện toàn thân: bệnh nhân có thể sốt, kém ăn, kém ngủ, có một ít dử mắt. Khám thấy kết mạc cương tụ rìa, cương tụ sâu ở kết mạc, có thể thấy rất rõ những mạch máu giãn to, màu tím sẫm, ngoằn ngoèo. Mống mắt: sẫm màu, kém xốp, đồng tử co nhỏ và phản xạ ánh sáng giảm hoặc mất. Ở giai đoạn muộn của bệnh, đồng tử có thể bị méo mó do dính vào mặt trước thể thuỷ tinh. Thủy dịch bị vẩn đục, khám trên kính hiển vi sẽ thấy dấu hiệu Tyndall dương tính ( ). Thủy tinh thể có những chấm sắc tố mống mắt bám ở mặt trước, nhiều khi những chấm, đám sắc tố mống mắt này xếp theo dạng vòng tròn tương ứng với bờ đồng tử. Mặt sau giác mạc có thể có tủa, đó chính là những chấm lắng đọng protein từ thủy dịch, đây là sản phẩm của quá trình viêm. Sờ phản ứng thể mi thì bệnh nhân đau tức là phản ứng dương tính. Những trường hợp bệnh nhân đến khám ở giai đoạn muộn, các triệu chứng cơ năng không còn rõ nữa, hầu như chỉ còn dấu hiệu mắt mờ. Lúc này, các triệu chứng khám thấy cũng khác xa so với giai đoạn trước, chẳng hạn: mống mắt teo, bạc màu, có thể có hình ảnh núm quả cà chua do nghẽn đồng tử, thủy dịch ứ lại ở hậu phòng đẩy vồng mống mắt về phía giác mạc; đồng tử bị thu nhỏ, dính tít hoặc méo mó do dính vào mặt trước thủy tinh thể; phản xạ với ánh sáng của đồng tử lúc này sẽ bị hạn chế do dính, diện đồng tử có thể bị màng viêm che kín; thủy tinh thể, dịch kính có thể bị vẩn đục ở các mức độ khác nhau, do màng viêm cùng với thể thủy tinh đục che khuất, dấu hiệu đục dịch kính chỉ có thể được phát hiện bằng siêu âm; nhãn áp tăng thứ phát do nghẽn đồng tử, nghẽn vùng bè hoặc có thể hạ do teo thể mi.

Điều trị thế nào?

Điều trị căn nguyên: Tùy nguyên nhân của bệnh mà có thể phải phối hợp với các chuyên khoa liên quan để điều trị triệt để. Trường hợp không tìm được nguyên nhân thì phải dùng kháng sinh có hoạt phổ rộng điều trị  bao vây và thường dùng phối hợp ít nhất 2 loại kháng sinh.

Việc quyết định sử dụng thuốc nào sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. Một số thuốc khác nhau có thể được lựa chọn như: thuốc chống viêm steroid dạng thuốc uống, nhỏ mắt, tiêm; thuốc điều trị nhiễm trùng chủ yếu là các loại kháng sinh; thuốc kháng virus; thuốc giảm đau nhóm NSAIDs.

Để phòng tránh bệnh, cần ăn uống hợp vệ sinh để tránh nhiễm ấu trùng giun, sán; không rửa mặt bằng nguồn nước ô nhiễm; bảo vệ mắt bằng kính khi tiếp xúc với môi trường khói bụi. Đến ngay các cơ sở chuyên khoa về mắt để khám và điều trị kịp thời khi có các dấu hiệu của bệnh.

Nâng cao thể trạng và tăng sức đề kháng bằng các thuốc: vitamin A, C, D và nhóm B.

Điều trị các di chứng: tăng nhãn áp thứ phát, đục thể thủy tinh là những di chứng thường gặp. Tuy nhiên, các trường hợp này dùng phương pháp phẫu thuật thường cho kết quả kém và rất hay tái phát. Vì vậy, đối với bệnh viêm mống mắt thể mi, cần được chẩn đoán và điều trị sớm để tránh các biến chứng.


BS. Nguyễn Minh
Ý kiến của bạn