Trong sinh hoạt, lao động, nguyên nhân chính gây bỏng gồm: nước sôi, cháy nổ, chất lỏng hay khí dễ cháy, điện, hóa chất, bô xe... Vết thương do bỏng thường dễ bị nhiễm khuẩn do da bị tổn thương, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và làm ức chế miễn dịch toàn thân. Vì vậy biến chứng nhiễm khuẩn là nguyên nhân chính gây bệnh tật và tử vong do các vết thương bỏng nghiêm trọng.
Tại sao vết thương do bỏng lại rất nguy hiểm?
Vết bỏng rộng và sâu rất dễ nhiễm khuẩn. |
Biểu hiện nhiễm khuẩn vết bỏng
Mỗi năm ở Hoa Kỳ có hơn hai triệu trường hợp bị bỏng. Có khoảng 70.000 người phải nhập viện, trong đó khoảng 20.000 người bị bỏng nặng phải điều trị ở các đơn vị điều trị bỏng đặc biệt. Hằng năm có khoảng 10.000 bệnh nhân tử vong do nhiễm khuẩn liên quan đến bỏng. |
Người ta thường sinh thiết vết bỏng thường quy ở những khoảng thời gian xác định và khảo sát mô học để chẩn đoán nhiễm khuẩn: khi có trên 105 vi khuẩn trên 1g mô cho thấy nhiễm khuẩn xâm lấn nhanh và gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn máu. Ngoài nhiễm khuẩn vết bỏng, một số nhiễm khuẩn khác do ức chế miễn dịch khi vết thương lan rộng, do các thủ thuật có thể gây nhiễm khuẩn cho bệnh nhân như: viêm phổi hay gặp nhất trong các bệnh nhân bỏng nằm viện, viêm màng trong tim, nhiễm khuẩn đường tiểu, viêm sụn hay gặp ở bệnh nhân bị bỏng ở tai, nhiễm khuẩn trong ổ bụng...
Điều trị vết bỏng nhiễm khuẩn
Khâu và làm lành vết thương là mục tiêu chủ yếu của điều trị vết bỏng. Thực hiện cắt lọc sớm, cắt lọc rộng tổ chức bị bỏng nhằm loại bỏ mô bị hoại tử và ghép da hay da thay thế sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân bị bỏng nặng. Dùng kháng sinh tại chỗ như: thuốc mỡ sulfadiazin, mafenid acetat, nitrat bạc, có tác dụng giảm đáng kể số lượng vi khuẩn tại vết thương và làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn vết bỏng. Nếu chẩn đoán nhiễm khuẩn đã xâm nhập vào vết thương, nên sử dụng thuốc mỡ mafenid acetat bôi tại chỗ. Sử dụng phương pháp nhỏ giọt trực tiếp một loại kháng sinh, như piperacillin phía bên dưới tổ chức hoại tử để xâm nhập vào trong các tổ chức của vết thương có tác dụng tốt giúp cho điều trị ngoại khoa và điều trị kháng sinh toàn thân. Nếu chưa làm được kháng sinh đồ thì nên sử dụng các kháng sinh phổ rộng, có tác dụng với các mầm bệnh thường gặp ở các cơ sở mà bệnh nhân đang điều trị bỏng. Có thể dùng các loại thuốc: oxacillin, mezlocillin, gentamincin, ciprofloxacin... Cần chú ý rằng dùng kháng sinh dự phòng không những không có tác dụng trong điều trị vết thương do bỏng mà còn có thể tạo cho vi khuẩn kháng thuốc. Tuy nhiên lại nên dùng kháng sinh dự phòng tại thời điểm làm thủ thật cắt lọc mô hoại tử hay cấy ghép da để đề phòng vãng khuẩn huyết. Cách tốt nhất là dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ. Tất cả những bệnh nhân bị bỏng cần phải tiêm phòng ngừa uốn ván.
BS. Trần Thanh Tâm