Hở van động mạch chủ được định nghĩa là tình trạng van đóng không kín làm một phần lượng máu sau khi được bơm vào động mạch chủ chảy ngược lại tâm thất trái.
Hở van động mạch chủ do đâu?
Hở van động mạch chủ có thể gây nên do tình trạng bệnh lý lá van hoặc gốc động mạch chủ. Ở nước ta, nguyên nhân hàng đầu gây hở van động mạch chủ vẫn là thấp tim gây dày và co rút lá van. Các nguyên nhân khác có thể gặp là: van động mạch chủ hai lá van bẩm sinh gây sa lá van, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn gây thủng lá van, sa van động mạch chủ do thông liên thất. Các bệnh gây giãn gốc động mạch chủ có thể làm hở van động mạch chủ là tăng huyết áp kéo dài, các bệnh lý gây phình động mạch chủ, bệnh có tính chất di truyền như hội chứng Marfan, bệnh Fallot 4 ở giai đoạn muộn.
Nguy cơ do hở van động mạch chủ.
Dấu hiệu nhận biết
Tùy thuộc vào nguyên nhân gây hở van động mạch chủ mà triệu chứng có thể từ từ hoặc rầm rộ (như trong viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn). Hầu hết các trường hợp hở van mạn tính đều có ít triệu chứng, trừ khi đến giai đoạn cuối của bệnh. Các triệu chứng có thể gặp là khó thở khi gắng sức hoặc mệt mỏi không rõ nguyên nhân. Có một số bệnh nhân biểu hiện mệt mỏi đến mức hết hơi sau một ngày làm việc. Trái với hẹp van động mạch chủ, bệnh nhân hầu như ít khi đau ngực hoặc ngất. Bệnh nhân hoặc người nhà có thể phát hiện các dấu hiệu hồi hộp đánh trống ngực, tim đập mạnh. Các triệu chứng rõ ràng của suy tim như khó thở hoặc đau ngực khi xuất hiện chứng tỏ bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Nguy hiểm thế nào?
Hở van động mạch chủ sẽ gây nên tình trạng quá tải cả về thể tích và áp lực khác với hở van hai lá chỉ quá tải về thể tích. Tâm thất trái có thể chịu đựng tình trạng quá tải này trong một thời gian dài có khi hàng thập kỷ. Phản ứng của tâm thất trái là giãn và phì đại, hình dáng thay đổi theo hướng tròn hơn. Thông thường chỉ số tống máu tâm thất trái sẽ được bảo tồn cho tới giai đoạn muộn của bệnh.
Bệnh nhân hở van động mạch chủ nặng có thể chịu đựng trong nhiều năm trước khi triệu chứng xuất hiện. Khác với bệnh hẹp van động mạch chủ, nguy cơ đột tử của bệnh nhân hở van động mạch chủ không cao (dưới 0,2% /năm). Tuy nhiên khi chức năng thất trái giảm, triệu chứng sẽ xuất hiện, khi đã có triệu chứng nguy cơ tử vong sẽ là 10%/năm.
Với những bệnh nhân hở van động mạch chủ nhẹ và vừa, nên thăm khám định kỳ hàng năm và có thể chỉ cần làm siêu âm tim 2 năm/ lần. Với bệnh nhân hở van động mạch chủ nặng cần khám và siêu âm tim 6 tháng/lần.
Phương pháp chẩn đoán và điều trị
Thăm khám lâm sàng đã có thể hướng đến chẩn đoán bệnh với các triệu chứng: Mạch nảy mạnh, huyết áp tâm thu cao và tâm trương thấp, nghe tim có tiếng thổi tâm trương đặc trưng.
Ngoài ra các xét nghiệm, chẩn đoán như: Điện tâm đồ, siêu âm tim, đánh giá kích thước và chức năng thất trái (quan trọng phân số tống máu). Phát hiện các bệnh lý của động mạch chủ kèm theo, nhất là các trường hợp hở van động mạch chủ thứ phát do giãn gốc động mạch chủ. Mức độ của hở van động mạch chủ.
Do tiến bộ của siêu âm tim nên thông tim và chụp buồng tim không còn được chỉ định để chẩn đoán hở van động mạch chủ. Tuy nhiên chụp động mạch vành bằng đường ống thông có thể nên làm trong những trường hợp bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao về bệnh mạch vành.
Điều trị bằng thuốc không thể làm hết hở van động mạch chủ nhưng vẫn có vai trò tích cực trên những bệnh nhân chưa có triệu chứng hoặc chưa có chỉ định phẫu thuật.
Bệnh nhân cần tư vấn các bác sĩ chuyên khoa tim mạch tỉ mỉ về các hoạt động thể lực. Bệnh nhân cần tránh các hoạt động nặng của tay như tập tạ, bóp tạ vì sẽ tăng trở kháng ngoại biên theo cơ chế phản xạ làm tăng gánh nặng cho tim. Tuy nhiên, nên khuyến khích đạp xe vì vận động đều các nhóm cơ lớn ở chi dưới nên có tác dụng giãn mạch và tạo cảm giác khỏe mạnh.
Khi nào nên phẫu thuật?
Khi bệnh nhân xuất hiện triệu chứng khó thở hoặc đau ngực.
Khi bệnh nhân chưa có triệu chứng nhưng chức năng tâm thất trái giảm (EF<50%), hoặc tuy chức năng tâm thu thất trái còn bảo tồn nhưng tâm thất trái giãn (DD>75mm hoặc DS>55mm).
Thay van cũng có thể được chỉ định sau khi bàn bạc với bệnh nhân về lợi hại của phẫu thuật trên những bệnh nhân ở ranh giới của phẫu thuật: Bệnh nhân chưa có triệu chứng, chức năng tâm thu thất trái bảo tồn, tâm thất trái giãn ở mức độ (DD>70mm hoặc DS>50mm). Bệnh nhân hở van động mạch chủ mức độ vừa cần phải phẫu thuật tim khác (ví dụ như phẫu thuật bắc cầu nối động mạch vành).