Ngưu tất có tên khoa học: Achyranthes bidentata Blume.
Họ Rau giền: Amaranthaceae.
Bộ phận dùng: rễ đã phơi hay sấy khô của cây ngưu tất.
Sách cổ nói: vị thuốc giống đầu gối con trâu nên gọi là ngưu tất (ngưu là trâu, tất là đầu gối).
Mô tả
Rễ hình trụ, dài 20 - 30cm, đường kính 0,5 - 1,0cm. Đầu trên mang vết tích của gốc thân, đầu dưới thuôn nhỏ. Mặt ngoài màu vàng nâu, có nhiều nếp nhăn dọc nhỏ và vết tích của rễ con.
Vi phẫu mặt cắt rễ gần tròn, từ ngoài vào trong có: lớp bần gồm các tế bào nhỏ, dẹt, xếp thành dãy đồng tâm và xuyên tâm, phần ngoài có nhiều chỗ bị bong ra. Mô mềm vỏ cấu tạo từ những tế bào hình nhiều cạnh, thành mỏng, xếp lộn xộn. Libe - gỗ xếp thành từng bó, mỗi bó có libe phía ngoài, mạch gỗ ở phía trong. Các bó libe - gỗ xếp rải rác thành bốn vòng đồng tâm, ở tâm các bó libe - gỗ có hình tam giác cân xếp sát nhau tạo thành những hình quạt.
Thu hoạch vào mùa đông, khi thân và lá khô héo, đào lấy rễ, chọn loại rễ to, cắt bỏ rễ con, loại bỏ đất, buộc thành bó nhỏ, phơi đến khi héo, khô nhăn, xông lưu huỳnh 2 lần cho mềm. Cắt bằng phần đầu, phơi khô.
Tính vị, quy kinh: khổ, toan, bình. Vào các kinh can, thận.
Công năng, chủ trị: hoạt huyết thông kinh, mạnh gân cốt, bổ can thận.
Chủ trị: dùng trị đau lưng gối, mỏi gân xuơng; bế kinh, kinh nguyệt không đều, tăng huyết áp.
Cách dùng, liều lượng: ngày 8 - 12g, dưới dạng thuốc sắc.
Kiêng kỵ: phụ nữ có thai, băng huyết không dùng.
Một số bài thuốc sử dụng ngưu tất
Đợt cấp của viêm đa khớp dạng thấp: thổ phục linh 12g, hy thiêm 16g, tỳ giải 12g, ké đầu ngựa 12g, cành dâu 12g, ngưu tất 16g, lá lốt 10g, cà gai leo 12g. Cho 3 chén nước sắc còn lưng 1 chén (200ml) ngày sắc uống 2 lần sau khi ăn. Ngày 1 thang.
Viêm đa chứng loại mãn tính:
Thổ phục linh 16g, rễ lá lốt 12g, mã đề sao 16g, cành dâu 16g, ngưu tất 16g, đỗ đen sao 16g, sinh địa 16g, ý dĩ 16g. Đổ 3 bát nước sắc còn lưng bát (200ml) ngày sắc uống 2 lần sau khi ăn. Ngày 1 thang.
Ngưu tất thái lát mỏng 12g, hằng ngày có thể sắc hoặc hãm bằng phích nước nóng, uống thay nước trong ngày giúp làm giảm cholesterol và triglycerid.
Trên lâm sàng, cây ngưu tất và một số bài thuốc có ngưu tất được dùng điều trị cho bệnh nhân bị mỡ máu cao, cao huyết áp, xơ vữa động mạch… cho kết quả khá tốt.
Ngưu tất 30g, hạt muồng sao 20g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang, chữa các chứng bốc nóng, nhức đầu, chóng mặt, đau mắt, ù tai, tăng huyết áp cao, rối loạn tiền đình, khó ngủ, đau nhức dây thần kinh, rút gân, co giật, táo bón, hỗ trợ giảm hiện tượng béo phì.
Bài hạ áp: thục địa: 20g, ngưu tất: 10g, rễ nhàu: 20g, trạch tả:10g, mã đề: 20g, táo nhân: 10g, hoa hòe: 10g, sắc uống ngày 1 thang.