Tết tây dựa vào hành trình trái đất quay quanh mặt trời, còn Tết ta dựa vào hành trình mặt trăng quay quanh trái đất. Một thứ dựa vào thiên văn phương Tây, một dựa vào phương Đông, song có nhiều điểm chung.
Ngày đầu năm mới đã có từ lâu và biến đổi qua nhiều thiên kỷ theo lịch sử tiến hóa của loài người. Nó bắt đầu từ thời cổ đại và tồn tại cùng với dòng chảy văn minh. Ngày và giờ được quy định khác nhau ở từng quốc gia và từng lục địa tùy theo tiết khí, múi giờ... đồng thời cũng tùy vào chủng tộc và nền văn hóa của từng nước, từng tôn giáo.
Từ lịch Caesar (Julian Calendar)
Tết Tây thường được tính vào ngày 1/1, ngày đầu tiên của năm theo lịch Gregorian hiện đại cũng như lịch Julian (được dùng trong thời kỳ La Mã cổ đại). Hầu hết các nước đều sử dụng lịch Gregorian làm lịch chính, nên Tết Dương lịch (Tết Tây) là kỳ nghỉ chung duy nhất của các công dân trên toàn cầu, và nó thường được chào đón bằng nghi lễ trang trọng như bắn pháo hoa vào thời khắc giao thừa sang năm mới. Ngày 1/1 theo lịch Julian tương ứng với ngày 14/ 1 theo lịch Gregorian.
Ngày 1/1 Dương lịch vẫn được xem là thời điểm đánh dấu một năm trôi qua và năm mới bắt đầu. Mọi giao dịch mang tính quốc tế đều theo Dương lịch cho thống nhất và tiện lợi.
Đến lịch Gregory XII (Gregorian Calendar)
Lịch Julian được chấp nhận ở Venice (Ý) năm 1522; Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Người Cơ đốc giáo ở Nam châu Âu năm 1556; Đế quốc Phổ, Đan Mạch, Thụy Điển năm 1559; Pháp năm 1564.
Đến năm 1582, lịch Julian mất chỗ đứng khi Giáo hoàng Gregory XII ngay sau ngày nhậm chức đã dùng phương pháp tính lịch hiện đại để phân chia tháng năm. Giáo hoàng sửa đổi và ấn định ngày đầu của năm mới (New Year) là ngày 1/1 bất chấp những chống đối của nhiều hiệp hội tín đồ Cơ đốc giáo. Trong lịch sửa đổi có tên “Lịch Gregorian”, 10 ngày trong tháng 10 bị bỏ đi. Như vậy, ngày 4/10/1582 nhảy sang ngày 15/10/1582 và tiếp tục. Bằng cách này, Giáo hoàng đã xóa bỏ 11 ngày nhuận dự trù cho năm 1700 để các năm đầu thế kỷ 1700,1800 và 1900 không phải là năm nhuận mà đến năm 2000 chuyển giao thiên niên kỷ mới nhuận.
Tết Mặt trăng
Người Trung Hoa tính theo hệ thống mặt trăng cho nên ngày năm mới rơi vào tháng bắt đầu có trăng, khoảng 4 hay 8 tuần trước khi mùa xuân đến. Ngày chính xác có thể vào khoảng giữa ngày 21/1 hay ngày 21/2 của lịch “Gregorian Calendar”. Lịch Trung Hoa thành lập không giống lịch Gregorian bởi vì phạm vi của mùa thay đổi. Và mỗi năm có can chi khác nhau (Mậu Tý chẳng hạn) tượng trưng cho 1 trong 12 con Giáp luân phiên theo quy luật Ngũ hành với chu kỳ 60 năm. Tết Nguyên Đán Việt Nam từ xưa dựa theo lịch Trung Hoa nên thường giống lịch Trung Quốc.
Nguyên nghĩa của từ “Tết” chính là “tiết”. Văn hóa Đông Á - thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước - do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc “giao thời”) trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Theo lịch sử Trung Quốc nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng Giêng, tức tháng Dần là Tết. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng Chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng Mười một làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.
Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (TK 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng Mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng Giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng, ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có lợn, ngày thứ tư sinh dê, ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa, ngày thứ bảy sinh loài người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế mà ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy tháng giêng (8 ngày)
Ngày nay, cùng với người Hoa, người Việt, các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Triều Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Nepal, Bhutan cũng tổ chức Tết âm lịch với các nghi lễ chính thức. Trước đây, Nhật Bản cũng theo Tết âm lịch, nhưng từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương lịch cho các ngày lễ tương ứng trong âm lịch.
Tết Nguyên đán là lễ tết đầu tiên của một năm. Tết được bắt đầu từ lúc giao thừa cùng với lễ trừ tịch. Theo chữ Hán Nôm, Nguyên có nghĩa là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Đán tức là Tết bắt đầu của năm, mở đầu cho mọi công ăn việc làm với tất cả mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang.
Người Việt tin rằng, vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết, họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em đi chúc Tết được người lớn lì xì một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau.