LÊ THỊ HOÀI (Vũ Thư, Thái Bình)
Nhà thơ Trần Đăng Khoa
Tôi không phải chuyên gia ngôn ngữ mà chỉ là người yêu tiếng Việt thôi. Điều cô giáo băn khoăn, cũng là điều không ít người đã gióng lên tiếng chuông báo động. Tuy nhiên, cũng cần phải ghi nhận rằng, những năm gần đây, nhờ công cuộc đổi mới đất nước, người dân Việt Nam, dù không biết ngoại ngữ cũng không hề lạc hậu. Những tác giả đoạt giải Nobel, những tác phẩm vừa gây được tiếng vang trên thế giới thì ngay lập tức cũng đã xuất hiện ở Việt Nam với nhiều bản dịch khác nhau ở nhiều nhà xuất bản khác nhau. Trong lĩnh vực báo chí cũng rất phong phú và đa dạng. Chúng ta có báo hình, báo nói, báo giấy, báo mạng, rồi còn có cả bạt ngàn những trang blog cá nhân. Đã dần dần hình thành một dòng văn chương blog. Nhiều trang blog có giá trị đã được tuyển chọn rồi xuất bản thành những cuốn sách rất “ăn khách”. Không ít cuốn vừa ra đời đã được tái bản liên tục, như Kí ức vụn của Nguyễn Quang Lập, Tớ là Dâu của Joe, mà tôi và nhiều bạn đọc đã viết bài giới thiệu và ca tụng.
Trong bầu khí quyển trong lành của thời hội nhập và mở cửa với thế giới, xin đừng để tiếng Việt bị pha tạp, bị tàn phá đến méo mó và dị dạng…
Blog là một trong những loại hình báo mạng được nhiều người tìm đọc. Nhiều trang blog rất hay. Vui. Hóm. Giàu chất nhân văn và lượng thông tin. Nhưng cũng không ít trang blog vô bổ, nhảm nhí, thậm chí là độc hại, bởi những thông tin sai lạc, thiếu thiện chí. Người viết cứ viết “văng mạng”, lại không có sự “biên tập”, rà soát, cứ hồn nhiên và vô tư xả lên thinh không, biến không ít trang báo mạng thành những “bãi rác” khổng lồ, làm ô nhiễm bầu khí quyển trong lành của thời hội nhập và mở cửa. Bởi thế, bài viết Ngôn ngữ chát, mốt hay sự lạm dụng? của cô giáo Nguyễn Thanh Mai vừa in trên tạp chí Văn học có thể xem là một ý kiến hay, một vấn đề rất đáng được lưu ý.
Có một sự thật hiển nhiên mà hầu như ai cũng thấy. Cứ lật trang báo, hay bước ra đường là thấy: Tiếng Việt đang bị pha tạp, tàn phá đến méo mó và dị dạng. Thế thì trách chi những trang báo hoang? Trong blog, tiếng Việt nhiều khi bị bóp nặn đến biến dạng, chỉ với một mục đích nhằm để giải trí, gây cười. Đùa thì được. Vui thì được. Thậm chí còn tốt nữa là đằng khác. Nhưng khi biến những trò nghịch ngợm tếu nhộn ấy thành văn bản, thành ngôn ngữ chính quy thì lại không hề bình thường rồi. Cô giáo Nguyễn Thanh Mai giật mình thảng thốt: “Gần đây khi đọc, chấm bài văn của học sinh, tôi đã thường xuyên gặp phải hiện tượng các em dùng nhiều ký tự lạ, chữ viết tắt, sử dụng từ ngữ kiểu “số hóa”, kiểu thành ngữ láy vần vô nghĩa: “nhỏ như con thỏ”, “chán như con gián”... Rồi những từ đậm màu sắc ngôn ngữ chát như “híc híc”, “woa”, “oh gie”. Có em còn cho đó là “mốt của tuổi teen”, nếu bạn nào không nói, không viết thế sẽ bị cho là “nhà quê”. Hiện tượng ngôn ngữ chát xâm nhập vào học đường, học sinh ngày càng lạm dụng kiểu viết, kiểu dùng từ như vậy khiến nhiều giáo viên ngữ văn như tôi thực sự thấy lo ngại. Vậy nguyên nhân của thực tế này là do đâu? Làm thế nào để ngăn chặn, khắc phục, chữa được “căn bệnh” này cho các em?”.
Hoan nghênh cô giáo Nguyễn Thanh Mai. Việc gióng lên tiếng chuông báo động như vậy là rất cần thiết. Chuyện các em bắt chước văn phong blog, hay ngôn ngữ trò chuyện thường ngày là điều dễ hiểu. Ta hãy đáo qua quán nhậu sẽ thấy: “Phan Đình Giót đi!”, “Nào Bắc Kạn nhé!”, “Được! Bao nhiêu cũng được. Tớ sẵn sàng lý chiều chiều!”...
Thôi thì trách chi những anh nát rượu. Ta hãy ngước nhìn khắp các khu phố kia. Những lời quảng cáo, những tấm biển hiệu đã được các cơ quan chức năng của thành phố thẩm định. Chỗ này “Sài Gòn răng”. Chỗ kia “Lẩu dê quán”. Rồi chỗ nọ “Sài Gòn ngân hàng”... Rồi còn hàng trăm biển, nhãn tương tự. Xin bạn đọc lưu ý, đây là biển tiếng Việt, viết bằng chữ Việt, chứ không phải biển tiếng nước ngoài, viết bằng chữ nước ngoài. Ngay cả những nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng cũng còn gọi “Hà Nội phố”, “Em ơi Hà Nội phố...”. Rồi cũng theo cái “mốt” ấy, có một nhà báo tài danh đã viết bài và “giật” cái tít to đùng trên một tờ báo sang trọng: “Mốt mùa hè - HÀ NỘI VÁY...”.
Ngay cả những tác phẩm từng đoạt giải văn chương, có thi sĩ còn viết: “Chiều nay, em nhận được bức thư từ anh”. Rồi lại một thi sĩ nổi tiếng khác miêu tả những người phụ nữ nông thôn: “Người họ được bó bởi tấm áo nâu”. Những tác phẩm được coi là văn chương mẫu mực mà còn thế. Rồi sẽ đến lúc các em không nói “Tôi ăn cơm”, mà sẽ là “Cơm đã được ăn bởi tôi”.
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là công việc của toàn xã hội, của tất cả mọi nhà, mọi người, chứ không còn là chuyện riêng của các nhà văn hay các thầy cô giáo. Bây giờ buồn thay, hầu như rất ít người quan tâm đến điều này. Tôi chợt nhớ Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân. Người ta kể rằng, thời chiến tranh phá hoại khốc liệt, Mỹ ném bom B52 rải thảm hủy diệt Hà Nội, cụ Nguyễn Lân chạy ra hầm trú ẩn công cộng của khu phố, nhưng lại thấy trên nóc hầm, người ta viết một câu sai chính tả: “Hầm chú ẩn”. Thế là cụ kiên quyết không vào: “Đây là hầm dành cho chú, mà tôi thì đã là bác, là ông rồi!”.
Câu chuyện trên dĩ nhiên là giai thoại. Mà giai thoại thì có thể là thật, có thể là bịa. Nhưng tấm lòng đau đáu của nhà giáo Nguyễn Lân với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là điều có thật.
Họa sĩ Bùi Xuân Phái có biệt tài vẽ phố cổ Hà Nội. Để định danh mảng sáng tác đặc sắc này của họa sĩ tài danh, cụ Nguyễn Tuân gọi là Phố Phái. Có người học cụ mà là nói là Phái Phố là phá tiếng Việt và trái với ý của cụ đấy.
Chúng ta là dân Việt, ăn cơm Việt, ở nhà Việt, tắm trong nền giáo dục, văn hóa Việt, hít thở bầu khí quyển Việt, mà nói lại như Tây, mà Tây ngây ngô, Tây ngọng nghịu, Tây không “thõi” tiếng Việt.
Nghĩ mà buồn lắm thay!