Thuốc có độc tính và không có dộc tính với gan
Về tổng thể, có thể chia một cách tương đối toàn bộ thuốc ra hai nhóm:
“Nhóm thuốc gây độc với gan” hay thuốc gây viêm gan bao gồm những thuốc mà người bình thường khỏe mạnh khi dùng chúng đúng chỉ định, đúng liều nhưng lại gây tổn thương gan
“Nhóm thuốc không gây độc với gan” hay thuốc không gây viêm gan bao gồm những thuốc mà người bình thường khỏe mạnh khi dùng chúng đúng chỉ định, đúng liều không gây tổn thương gan.
Trong định nghĩa này không bao gồm người dùng trước đó đã bị bệnh gan hoặc dùng chúng không đúng chỉ định, đúng liều. Nếu không tuân theo điều kiện giới hạn này rất dễ xếp nhầm nhóm này vào nhóm khác. Có thể nêu một vài ví dụ.
Pacracetamol khi uống sẽ chuyển thành chất trung gian có độc với gan. Tuy nhiên nếu dùng đúng chỉ định (để hạ nhiệt giảm đau) và đúng liều (mỗi ngày từ 2 - 4 viên 500mg) chất trung gian hóa học có độc cho gan sinh ra ít, gan sinh ra đủ chất gluthation để hóa giải nên gan không bị tổn thương. Nhưng nếu dùng liều quá cao, chất trung gian có độc với gan sinh ra quá nhiều, gan không sinh ra đủ gluthation để hóa giải nên gan bị tổn thương. Vì lẽ trên mà người ta xếp paracetamol vào “nhóm thuốc không gây độc cho gan”, được coi là thuốc lành tính có thể dùng cho mọi lứa tuổi bán không yêu cầu phải có đơn (OTC).
Corticoid vốn không có tính độc với gan tuy nhiên khi dùng không đúng chỉ định (dùng cho người viêm gan bị phù, cổ chướng...) do corticoid giữ nước nên làm nặng thêm bệnh này.
Các thuốc an thần lợi tiểu chống táo bón nhưng khi dùng không đúng chỉ dịnh (dùng cho người bị bệnh não do gan) cũng làm nặng thêm bệnh này.
Người viêm gan dùng nhóm “thuốc không độc với gan” như thế nào?
Người viêm gan dùng “nhóm thuốc không độc với gan” vẫn có thể bị hại. Lý do: ở người viêm gan chức năng gan suy giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng đến dược động học của thuốc làm thay đổi hoạt tính, thay đổi các tác dụng phụ nên có thể gây ra các tai biến khác nhau kể cả tai biến về gan. Một số thí dụ.
Thông thường thuốc vào máu sẽ gắn kết với protein của huyết tương thành dạng phức hợp, sau đó dưới tác động của gan mới giải phóng trở lại thành dạng tự do, rồi chuyển hóa thành chất trung gian có hoạt tính hoặc chất trung gian không độc thải ra ngoài. Người bị viêm gan chức năng sản xuất albumin của gan bị suy giảm, sự gắn kết giữa protein với thuốc bị suy giảm, do đó thuốc tồn tại trong máu dưới dạng tự do có nồng độ cao làm tăng độ độc như phenytoin, prednisolon.
Gan có chức năng sản xuất các yếu tố đông máu. Khi viêm gan chức năng gan suy giảm, các yếu tố đông máu bị thiếu, do đó thời gian đông máu kéo dài ra, thậm chí không đông. Lúc này nếu dùng một thuốc cầm máu, hiệu lực thuốc cầm máu bị giảm, sự cầm máu bị chậm trễ hay không thể cầm máu được. Ngược lại khi dùng một thuốc chống đông (để làm tan cục máu đông) hiệu lực thuốc chống đông sẽ tăng quá mức gây ra tác dụng phụ chảy máu.
Người bị viêm gan ứ mật chức năng sản xuất lẫn tiết mật bị đình trệ. Do thế sự chuyển hóa thuốc không tan trong mỡ bị giảm, thuốc không bị mất nhiều, từ đó sinh khả dụng thuốc tăng. Ngược lại cũng do thiếu mật, mỡ không được nhũ hóa nên các thuốc tan trong mỡ sẽ hấp thu ít, từ đó sinh khả dụng của thuốc bị giảm.
Nhóm thuốc không độc với gan không phải là chống chỉ định bắt buộc với người viêm gan; khi cần thiết vẫn có thể cho người viêm gan dùng nhóm thuốc này nhưng khi cho dùng thầy thuốc phải tính kỹ để chọn liều dùng phù hợp. Ví dụ: người viêm gan không sản xuất đủ các yếu tố đông máu làm cho thời gian đông máu bị kéo dài. Khi cần dùng thuốc chống đông máu cho người này phải giảm liều để tránh tai biến bị chảy máu (như nói ở phần trên).
Người viêm gan không được dùng nhóm “thuốc có độc với gan”
Có rất nhiều thuốc có độc với gan trong đó có những nhóm chính sau:
- Nhóm thuốc kháng sinh: một số kháng sinh có độc với gan với mức độ khác nhau. Thí dụ trong nhóm macrolid thì clarithromycin, azithromycin chủ yếu chỉ làm tăng enzym AST, bilirubin trong máu kèm theo gây vàng da, tăng bạch cầu eosin trong khi đó tuy cùng nhóm macrolic nhưng tellimycin lại làm tổn thương tế bào gan với tần suất vượt hẳn hai thuốc trên còn treandomycin gây độc cho gan theo dạng hỗn hợp rất nguy hiểm. Nhóm tetracyclin: tetracyclin dạng uống có thể gây thâm nhiễm mỡ gan nhưng không gây hậu quả về lâm sàng nhưng khi dùng dạng tiêm tĩnh mạch cho người mang thai lại có nguy cơ cao gây suy gan. Nhóm kháng sinh chống nấm griseopulvin gây ứ mật.
- Nhóm thuốc chống lao: nhóm thuốc này tạo ra các chất độc tác dụng lên protein của gan làm hoại tử tế bào gan hoặc tạo ra các phức hợp kháng nguyên kích thích tế bào lympho đưa dến phản ứng miễn dịch gây nhiêm độc gan. Tỷ lệ mắc khoảng 0,6 - 3% trên số người dùng, trong số đó pyrizinamid chiếm 82%, isoniazid chiếm 9% rifamycin chỉ chiếm 1%.
- Nhóm thuốc diệt ký sinh trùng: thuốc sốt rét (aminodiaquin,mepraquin) gây rối loạn chức năng gan. Thuốc giun (thiabenzol) vừa gây rối loạn chức năng gan vừa gây ứ mật.
- Nhóm thuốc tim mạch: đa số thuốc tim mạch gây ứ mật như thuốc chống loạn nhịp (quinidin, ajmalin) thuốc mạch vành(verapramil, diltiazem) thuốc huyết áp (catopril, nifedipin). Chỉ một ít thuốc tim mạch gây hoại tử gan hay gây độc hỗn hợp gan (vừa gây ứ mật, vừa gây thoái hóa mỡ vừa gây hoại tử gan) rất nguy hiểm như thuốc huyếp áp (apshydralazin, enalapril) thuốc mạch vành (herhexilin).
- Nhóm thuốc hormon: có hormon gây ứ mật nhưng tự hồi phục như testosteron, thuốc tránh thai nữ (với tỷ lệ thấp). Có hormon gây hoại tử gan như kháng giáp tổng hợp thiouracin.
- Nhóm thuốc trị ung thư: Methotrexat gây nhiễm mỡ gan, có thể gây xơ gan; pluouracil gây viêm gan.
- Nhóm thuốc tâm thần - thần kinh: thuốc chống động kinh valproic có thể gây bất thường gan. Phenytoin có thể gây viêm gan cấp.
Người viêm gan chức năng gan bị suy giảm, khả năng hóa giải chất độc bị giảm sút hoặc không còn có khả năng hóa giải chất độc… vì vậy không thể dùng nhóm “thuốc có độc với gan”.
Khi điều trị cho người viêm gan phải chọn nhóm thuốc không gây độc cho gan: ví dụ với người bị viêm phổi, nếu người đó còn bị viêm gan không được dùng nhóm kháng sinh gây độc cho gan như macrolid nhưng có thể dùng nhóm kháng sinh không gây độc cho gan như betalactam.
Mấy kết luận chung
Người viêm gan rất khó dùng thuốc chữa các bệnh khác kể cả những thuốc thông thường. Chỉ thầy thuốc mới có thể chọn loại thuốc “không độc với gan” để dùng nhưng cần có sự tính toán điều chỉnh liều. Người bệnh cần tuân thủ những hướng dẫn của thầy thuốc, không tùy tiện thay đổi để tránh điều bất lợi.
Có những thuốc dùng lâu dài biểu hiện viêm gan do thuốc có thể không rõ, cần khám xét nghiệm gan định kỳ theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Trong trường hợp người bệnh dùng nhiều loại thuốc, nếu phát hiện có biểu hiện viêm gan do thuốc phải ngừng thuốc rồi cho dùng lại từng thứ một và xét nghiệm enzym gan. Nếu thuốc nào làm tăng enzym gan gấp 2,5 - 5 lần coi đó là thủ phạm gây độc cho gan và phải loại bỏ ra khỏi quá trình điều trị. Việc tìm ra thủ phạm gây độc cho gan khi dùng các thuốc điều trị lao thường làm theo cách này.
Trong quá trình dùng nếu thấy một số biểu hiện bất thường (như chán ăn buồn nôn, mệt, vàng da, nước tiểu sậm… nổi ban da, sốt, tăng nhạy cảm hạ sườn phải, gan lách to, cổ chướng…).
Cần nói với bác sĩ (kể cả khi chưa đủ hoặc chưa rõ những hiện tượng trên). Nếu khám xác nhận có các triệu chứng trên phải xét nghiệm enzym gan nếu enzym gan tăng gấp 2,5 - 5 lần so với mức bình thường phải ngừng hay đổi thuốc..