Người Thụy Điển nghĩ gì?

24-01-2020 16:08 | Văn hóa – Giải trí

SKĐS - Tìm hiểu tâm tính một dân tộc là một vấn đề phức tạp. Sau đây là một số nhận định sơ bộ về tâm tính Thụy Điển dựa vào sự tìm hiểu qua tư liệu và qua thực tế.

Kỳ I

Tôi đang lang thang trước cổng Trường đại học Tổng hợp Stockholm thì gặp một thanh niên người I-ran, tiến sĩ lịch sử Thụy Điển, cư trú chính trị ở đây đã 7 năm. Qua câu chuyện tán gẫu, anh nhận xét là người Thụy Điển có đầu óc tổ chức tuyệt vời. Đến nay họ còn giữ được tài liệu về tên tuổi, của cải từng người dân ở nhiều xã đạo từ thế kỷ 17; anh còn thấy là người Thụy Điển không ưa hòa mình vào xã hội, nhưng không phải vì thế mà không tử tế.

Từ biệt anh thanh niên I-ran, trên đường ra ga xe điện ngầm, tôi nhớ tới lời mào đầu của Giáo sư xã hội học Goran Therborn (Gô-ran Tec-booc) ở Goteborg, trước khi ông trình bày ý kiến của ông về tâm tính Thụy Điển. Ông cho là, trong lĩnh vực này phải rất thận trọng, nếu không sẽ đi đến chỗ khiên cưỡng, gán ghép, rơi vào đầu óc chủng tộc; đây là một lĩnh vực rất tương đối, thay đổi tùy theo thời kỳ lịch sử, theo vùng, theo cả từng cá nhân. Ông nhấn mạnh một số đặc điểm dân tộc Thụy Điển: tính bình quân khá rõ trong phân phối lợi tức, bình đẳng nam nữ, tìm hiệu quả qua năng động đua tranh, tính tổ chức, tổng thể, đi đôi với tính độc lập và cá nhân cao, thích chính sách của cải hợp lý, tính nông dân, tính dè dặt ngần ngại với người lạ, tính thích đơn lẻ...

Một hôm, trước khi ăn cơm tối, ngồi nói chuyện với giáo sư xã hội học Edmund Dalhstrom (Et-mun Đan_strôm) ở Goteborg, tôi lại nêu vấn đề về tính dân tộc Thụy Điển, ông nhấn mạnh là có nhiều nét chung cho các dân tộc Bắc Âu cùng một nền văn hóa và lịch sử Scandinavia. Ông nhắc lại một số đặc điểm mà giáo sư Goran Therborn đã nêu, rồi cười nói:

- Người Thụy Điển “tránh va chạm”, sợ va chạm, đến mức nhà văn Mỹ Susan Sontag (Xu-dơn Xơn-tác) phải kêu lên: “tính tránh va chạm của người Thụy Điển hầu như có tính chất bệnh hoạn”. Do đó, chính trị hướng về trung lập, không bảo thủ mà cũng chẳng cách mạng, cứ lừa lựa đứng giữa...

Tôi nói đùa:

- Thế là nhại thuyết Trung Dung của cụ Khổng à?

- Ông đứng dậy, quay ra sau lưng rút một quyển sách - phòng sinh hoạt gia đình rất đẹp của ông đặt những giá sách chật ních. Đó là cuốn Tâm tính Thụy Điển viết bằng tiếng Thụy Điển của Ake Daun (Ê-cơ Đaon), giáo sư dân tộc học ở Stockhom. Sau đây, tôi xin lược một số ý chủ yếu theo bản tóm tắt tiếng Anh của nhà xuất bản này.

Những năm 80 thế kỉ XX, ở Thụy Điển, các giới nghiên cứu bắt đầu lại chú ý đến tính dân tộc Thụy Điển vì nhiều lý do. Trước hết, do hiện tượng quốc tế hóa thế giới (lao động di cư, hàng triệu người tị nạn, quan hệ buôn bán tăng vọt, phương tiện thông tin đại chúng bùng nổ...). Ở Thụy Điển, 10% dân số là người nhập cư, họ mang đến nhiều mẫu văn hóa khác, do đó, phải hiểu mẫu Thụy Điển để quan hệ xã hội có lợi nhất. Muốn kinh doanh cho tốt trên thị trường quốc tế, cần hiểu biết tâm tính, nền văn hóa của bạn hàng khác mình thế nào. Ngoài ra, hiện có khuynh hướng hơi bi quan về tương lai xã hội, nên người Thụy Điển thích nhìn vào bên trong và trở về nguồn gốc mình.

Về mặt giao tiếp xã hội, người Thụy Điển tỏ ra ngần ngại, dè dặt, thích tự chủ, không lệ thuộc người khác, thích đơn lẻ. So sánh sinh viên Thụy Điển với sinh viên Mỹ, thì sinh viên Mỹ không dè dặt hay giấu sự dè dặt ấy, nếu không, họ sẽ bị coi là thiếu thông minh tháo vát. Trái lại, sự dè dặt ở Thụy Điển lại được đánh giá là có cân nhắc suy nghĩ, có lẽ cũng do tâm lý họ hướng về nội tâm. Cũng có thể vì vậy họ thích yên ổn; trong nói chuyện, nhiều người không thích đặt câu hỏi, tránh thảo luận sâu vấn đề, trừ khi trong gia đình bè bạn - ấy là loại trừ chuyện trò về nghề nghiệp, hay về các đề tài họ thành thạo, có ranh giới rõ rệt giữa công việc và việc tư (gia đình, bè bạn). Tính thích yên ổn đó còn thể hiện qua khía cạnh tránh va chạm và phản ứng mặt đối mặt. Mỗi người phải ứng xử (hành động, ăn mặc, nói năng...) đúng với bản sắc tầng lớp xã hội của mình. Có thể có một nguyên nhân nữa của sự dè dặt trong giao tiếp xã hội, là vì họ phải đối phó với cái mới trong một xã hội thay đổi quá nhanh; tình trạng biến đổi giai cấp, vùng nông thôn chuyển sang thành thị.

Người Thụy Điển tha thiết với độc lập cá nhân hơn người Phần Lan, Ý, Mỹ. Họ thích đi dạo chơi một mình, dĩ chí sống một mình. Sinh viên thích sống lẻ, do đó, cư xá sinh viên được bố trí theo hướng đó. Trái lại, sinh viên Mỹ thích có bạn ở cùng phòng. Giáo dục trẻ em đề cao tính độc lập và tự chủ. Nhu cầu độc lập cá nhân và tự chủ có ảnh hưởng gì đến tỷ lệ ly dị cao và đến hiện tượng nam nữ chung sống không cưới xin, đó là vấn đề cần nghiên cứu.

Cũng như người Nhật, người Thụy Điển thích đi đến thỏa thuận. Giáo dục trẻ con Thụy Điển, nhấn mạnh đến tránh va chạm. Phong cách quản lý Thụy Điển tránh đối đầu, xung đột, nặng về điều đình, thương lượng.

Lương thiện cũng rất được đề cao ở Thụy Điển, mặc dù những năm gần đây cũng bị thách thức nhiều (trốn thuế). Lương thiện không hiểu riêng về vấn đề của cải, là một truyền thống. 60% người Thụy Điển cho nói dối là xấu (tỷ lệ Đan Mạch: 13%, Phần Lan: 22%, Na Uy: 38%, châu Âu - Địa Trung Hải: 26%).

Giống như người Nhật, người Thụy Điển không ưa biểu lộ cảm xúc: họ ít hôn nhau, vuốt ve, nói lời tình cảm, ngay trong gia đình. Người nước ngoài thấy nhiều người Thụy Điển ít nói, ít bắt chuyện.

Người Phần Lan so với người Thụy Điển nóng tính hơn. Khi không được cái mình muốn, 19% người Thụy Điển nổi cáu (tỷ lệ Phần Lan: 31%). Người Thụy Điển tương đối ít xúc cảm hơn, và phản ứng xúc cảm không mạnh bằng một số dân tộc khác. Khi được tin Tổng thống Kennedy bị ám sát, số người Mỹ khóc nhiều gấp đôi số người Thụy Điển khóc khi được tin Thủ tướng Olof Palme bị ám sát.

Nhiều người nước ngoài nhận xét là người Thụy Điển sống nghiêng về lý tính, dư luận từ lâu bị chủ nghĩa duy lý chi phối.

Người Pháp đọc thơ Thụy Điển ngạc nhiên thấy “ngôn ngữ sao cụ thể thế, những nhận xét sao chính xác thế”. Người nước ngoài nhận thấy người Thụy Điển thích lập luận, bằng vào sự việc và cụ thể hơn là óc tưởng tượng tư biện và cảm tính, do đó mà họ kế hoạch hóa có hiệu quả, có khả năng điều đình, thỏa thuận trên cơ sở lý tính. Từ những năm 30 thế kỷ XX, đường lối chính sách Thụy Điển nổi tiếng về tính hợp lý và những biện pháp thực tiễn. Cũng do đó mà người Thụy Điển nghiêm túc, ít hồ hởi, họ không hay cười, hay đùa giỡn như người Mỹ. Cũng vì chú trọng sự việc và luôn trình bày thẳng sự việc, họ hình như còn ít đất cho hài hước và bóp méo sự việc mua vui. Điều này cũng không thích hợp cho tư duy tư biện; khoa học xã hội Thụy Điển gắn liền với sự việc cụ thể.

(Mời bạn đọc xem tiếp trên SK&ĐS số 19 ra ngày 2/2/2020)


Nhà văn hóa Hữu Ngọc
Ý kiến của bạn