Trong ký ức của GS.TS Nguyễn Văn Kính, con đường đưa ông đến với chuyên ngành HIV/AIDS là một ngã rẽ định mệnh, khởi nguồn từ lời trăng trối của người thầy kính yêu - GS.BS Trịnh Ngọc Phan, người đặt nền móng cho chuyên ngành Truyền nhiễm Việt Nam.
Những năm 1980, khi đất nước còn chưa biết đến căn bệnh "SIDA", thầy Phan đã rất nhạy bén với những tín hiệu đầu tiên của một đại dịch mới. Trong cuốn Nội san Truyền nhiễm, GS. Phan viết: "Giới thiệu một bệnh mới là SIDA. Có thể bệnh này Việt Nam đã có rồi, nhưng chúng ta chưa có phương tiện phát hiện". Với tầm nhìn của một nhà khoa học tiên phong, thầy căn dặn học trò: "Các con phải xem, có khi sau này nó sẽ bùng lên một dịch lớn đấy. Phải học hỏi, cảnh tỉnh cho giới truyền nhiễm biết về căn bệnh này".
Không lâu sau, thầy Phan qua đời. Lời dặn ấy như một di ngôn khắc sâu trong tâm trí người học trò trẻ Nguyễn Văn Kính và trở thành ngọn lửa soi đường cho hành trình khoa học sau này. Khi Giáo sư - Viện sĩ Phạm Song tiếp quản Bộ môn Truyền nhiễm, ông tiếp tục định hướng cho lớp học trò kế cận phải học hỏi, nghiên cứu về căn bệnh mới đang lan rộng toàn cầu.
Năm 1990, bác sĩ trẻ Nguyễn Văn Kính trúng tuyển kỳ thi Interne des hôpitaux – chương trình tuyển chọn bác sĩ nội trú của Pháp. Trước ngày lên đường, thầy Song dặn dò: "Những bệnh ở đây các em đã biết rồi, cái mới là SIDA đấy. Kính sang đấy cố gắng học hỏi xem có gì mới để về áp dụng, vì chúng ta còn khó khăn nhiều. Chắc chắn sau này nó sẽ là vấn đề lớn".
Mang theo hành trang là lời dặn của hai người thầy vĩ đại, bác sĩ Kính đăng ký học chuyên sâu về HIV/AIDS tại Viện Pasteur Paris – trung tâm hàng đầu thế giới về bệnh truyền nhiễm, và trở thành người Việt Nam đầu tiên được đào tạo về lĩnh vực này tại Pháp. Cũng ở nơi đây, ông có cơ duyên được gặp hai nhà khoa học lừng danh là GS. Luc Montagnier và GS. Françoise Barré-Sinoussi, những người đầu tiên phát hiện ra virus HIV.
Buổi sáng, ông thực hành lâm sàng tại bệnh viện, buổi chiều lại miệt mài học kỹ thuật xét nghiệm ở Viện Pasteur Paris. "Hồi học nội trú trong nước, tôi đã làm quen với phòng xét nghiệm vi sinh nên sang Pháp không thấy bỡ ngỡ. Nhưng ở đây, tôi được trực tiếp thực hành các kỹ thuật mới như: Western blot, ELISA, Serodia là những xét nghiệm đầu tiên chẩn đoán HIV", ông nhớ lại.
Sự miệt mài của bác sĩ trẻ người Việt Nam khiến GS. Barré-Sinoussi chú ý và nhiều lần khích lệ: "Kính, anh chăm chỉ như thế, ở lại làm nghiên cứu sinh đi". Nghe vậy, ngọn lửa nhiệt huyết trong ông bùng cháy, thôi thúc ông dấn thân sâu hơn vào lĩnh vực đầy thử thách này. Chuyến đi ấy đã trở thành bước ngoặt cuộc đời, mở ra con đường để ông gắn bó trọn đời với cuộc chiến chống HIV/AIDS.
Trở về nước khi Việt Nam chưa ghi nhận ca bệnh HIV nào nhưng nhờ kinh nghiệm học được ở Pháp, ông cùng đồng nghiệp đã chủ động chuẩn bị ứng phó. Cuối năm 1990, ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại TPHCM, Việt Nam chính thức bước vào cuộc chiến với đại dịch toàn cầu.
Trong bối cảnh "căn bệnh thế kỷ" còn quá mới mẻ, bác sĩ Kính được giao soạn thảo những hướng dẫn lâm sàng đầu tiên về HIV/AIDS. Lúc bấy giờ theo lời các thầy "quan trọng nhất là lâm sàng, chứ xét nghiệm chúng ta chưa có gì trong tay cả".
Dựa trên tài liệu của Viện Pasteur Paris và Hướng dẫn của WHO, bác sĩ Kính biên soạn cuốn "Các phác đồ chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS với các bệnh cơ hội", phát hành trong toàn hệ thống truyền nhiễm. Sau này, tài liệu được tổng hợp và biên soạn lại thành sách "Những vấn đề cập nhật về HIV/AIDS" do Giáo sư - Viện sĩ Phạm Song chủ biên, là tài liệu nền tảng cho thế hệ y bác sĩ đầu tiên làm công tác phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Văn Kính chia sẻ tại một hội nghị quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS.
Trước những tranh luận ban đầu về căn bệnh mới, Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Song khi ấy với tầm nhìn chiến lược đã quyết định thành lập 4 tiểu ban chuyên môn (lâm sàng, dịch tễ, da liễu và huyết học) - tiền thân của Ủy ban Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS sau này. Bác sĩ Kính tiếp tục được cử đi học chương trình đào tạo lâm sàng chuyên sâu HIV/AIDS của WHO tại Philippines.
Khi trở về, ông tham gia Ban AIDS của Bộ Y tế, cùng đồng nghiệp soạn thảo phác đồ, hướng dẫn điều trị, xây dựng kế hoạch hành động đầu tiên cho toàn ngành. Dù ngân sách còn eo hẹp, mỗi bản kế hoạch chỉ kéo dài hai năm, nhưng đó là những viên gạch nền móng cho hệ thống phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam.
GS. Kính vẫn nhớ như in những ngày đầu gian khó, khi "vũ khí" chống lại HIV gần như bằng 0. "Chúng ta chưa có thuốc điều trị, mẫu xét nghiệm phải gửi qua các labo tham chiếu. Hồi tôi còn ở khoa Lây, khi WHO hỗ trợ khoảng 3.000 viên Zidovudine (loại thuốc đơn lẻ đầu tiên dành cho người nhiễm HIV), tôi được giao mang ngay 1.000 viên vào TPHCM cho Bệnh viện Chợ Quán (nay là Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TPHCM) để phát cho những bệnh nhân nội trú đầu tiên", ông kể. Với chiếc ba lô trên lưng, hành trình "cõng thuốc" vượt nghìn cây số của bác sĩ truyền nhiễm khi ấy mang theo niềm tin và hi vọng hồi sinh cho những phận đời có H.
Nhưng cuộc chiến với HIV chưa bao giờ là dễ dàng. Phác đồ "một thuốc" nhanh chóng bị kháng. Sau đó, WHO thống nhất phải chuyển sang phác đồ "ba thuốc" (ARV – thuốc kháng virus HIV) mới có hiệu quả, song thuốc lại rất khan hiếm. Bước ngoặt lịch sử chỉ thực sự đến vào năm 2004 khi Việt Nam bắt đầu tiếp cận được các quỹ quốc tế lớn như PEPFAR (Chương trình Cứu trợ khẩn cấp của Hoa Kỳ về phòng, chống AIDS) và Quỹ Toàn cầu phòng, chống AIDS, Lao và Sốt rét.
"Nguồn lực tăng vọt mỗi năm, mở ra cơ hội chưa từng có", GS. Kính nhớ lại. Ông cùng đồng nghiệp xây dựng các dự án lớn, vận động thêm Quỹ Bill Clinton hỗ trợ điều trị cho trẻ em nhiễm HIV. Sau này, Quỹ còn cùng các chuyên gia Việt Nam rong ruổi khắp cả nước để điều trị cho trẻ có H, đó là điều vô cùng nhân văn.


Một hệ thống điều trị toàn diện đã được xây dựng, vươn cánh tay xuống tận cộng đồng, tích hợp cả tư vấn, điều trị, sàng lọc và dự phòng lây truyền mẹ con. Khi chương trình điều trị ARV được triển khai rộng rãi, bệnh nhân bắt đầu được cứu sống. Phép màu đã đến. Nhờ ARV, tải lượng virus dưới 200 bản sao/ml máu (dưới ngưỡng phát hiện, K=K, Không phát hiện = Không lây truyền) sẽ không còn lây qua đường tình dục hay từ mẹ sang con.
"Nhiều bệnh nhân của tôi sau tuân thủ điều trị ARV và đạt K=K đã lấy nhau, sinh con khỏe mạnh. Họ còn mời tôi đi dự đám cưới, hạnh phúc lắm", ông kể, giọng xúc động. Đó là niềm hạnh phúc của người gieo mầm sống, chứng kiến mầm xanh đâm chồi từ mảnh đất tưởng chừng đã chết.
Những năm đầu đại dịch, HIV/AIDS là một "bóng ma" bị bao phủ bởi nỗi sợ hãi và định kiến nặng nề. Phần lớn người nhiễm là người nghiện ma túy (đến 90-95%) hoặc gái mại dâm. Nỗi sợ hãi và kỳ thị khi ấy bắt nguồn từ hai nguyên nhân: căn bệnh quá nguy hiểm, chưa có vaccine hay thuốc chữa, và những người mắc lại thuộc nhóm vốn bị xã hội xa lánh. "Nhà nào có người nghiện coi như "đi tong" cả nhà, có khi chính người thân cũng mong họ "chết sớm cho yên ổn"", GS. Kính nhớ lại.
Nỗi sợ hãi ấy len lỏi cả vào bệnh viện. "Cán bộ y tế khi ấy cũng sợ", ông kể. Ca nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam là một phụ nữ bán hàng tại chợ Bến Thành (TPHCM). Chị này phát hiện dương tính với virus gây bệnh HIV trong quá trình làm thủ tục định cư nước ngoài cùng người chồng sắp cưới. Khi có kết quả, người đàn ông bỏ đi để lại chị một mình giữa cú sốc.
"Nhiều lần, chúng tôi âm thầm đưa chị ấy đi khắp nơi tuyên truyền, ăn cùng, ngồi cùng, để mọi người thấy chẳng có gì phải e dè. Sau đó mới tiết lộ thân phận thật khiến ai cũng bàng hoàng, hóa ra HIV/AIDS chẳng dễ lây qua sinh hoạt hàng ngày như thế", GS. Kính hồi tưởng. Chính từ hành động nhỏ ấy, ông và các đồng nghiệp bắt đầu xóa kỳ thị ngay trong ngành y, rồi ra cộng đồng.
Cuối năm 1998, dịch HIV lan khắp cả nước. "Một số lãnh đạo tỉnh còn không muốn treo khẩu hiệu tuyên truyền phòng, chống AIDS, họ lo ảnh hưởng du lịch, kinh tế của địa phương. Kinh phí phòng, chống HIV/AIDS hầu như không có, tất cả tự lực cánh sinh", ông nhớ lại thời kỳ gian truân.
[VIDEO] GS.TS Nguyễn Văn Kính chia sẻ về thời kỳ đầu phòng, chống dịch HIV/AIDS tại Việt Nam.
Nhận thấy người nghiện sợ bị bắt, không dám tiếp cận, GS. Kính cùng đồng nghiệp đã đưa ra mô hình giáo dục đồng đẳng để chính người trong cuộc nói với nhau. Mô hình đầu tiên được thử nghiệm ở quận Đống Đa cũ (Hà Nội) và quận 1 cũ (TPHCM).
Ông kể tiếp: "Chúng tôi đề xuất xin 6 cô gái mại dâm ở trại Lộc Hà về cộng tác, hẹn sáng hôm sau đến nhận nhiệm vụ đi "giáo dục đồng đẳng". Chờ đến trưa vẫn không ai tới, chúng tôi lặn lội tìm đến tận nhà thì họ đã đi mất. Thử nghiệm đầu tiên thất bại. Sau đó, nhờ Hội Phụ nữ vận động, nhóm chọn được cô B., người từng làm gái mại dâm, đồng ý trở thành cộng tác viên rất nhiệt tình và hiệu quả. Sau này, cô ấy còn được nhận Bằng khen của quận Đống Đa vì những đóng góp của mình cho phong trào phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn đầu".
Từ nhóm phụ nữ mại dâm, mô hình giáo dục đồng đẳng được mở rộng sang nhóm người nghiện ma túy, những người "thích chích cả hội hơn chích một mình". Các câu lạc bộ đồng đẳng ra đời, hướng dẫn họ không dùng chung bơm kim tiêm. Thông điệp ABCD – "Abstinence, Be faithful, Condom, Don't use drugs (không quan hệ tình dục bừa bãi, sống chung thủy, sử dụng bao cao su đúng cách và không dùng chung bơm kim tiêm)" đã trở thành kim chỉ nam cho toàn bộ chiến dịch truyền thông thay đổi hành vi, giúp người dân hiểu rằng phòng, chống HIV không chỉ là trách nhiệm của ngành y tế mà của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và cộng đồng.
Tiếp đó, nhóm MSM (nam quan hệ đồng giới) vốn kín tiếng và chịu nhiều định kiến cũng được tiếp cận. GS. Kính cùng cộng sự thành lập Câu lạc bộ Bầu trời xanh ở Hà Nội, và một nhóm tương tự ở quận Tân Bình, TPHCM cũ, hướng dẫn họ thực hành tình dục an toàn. "Chính từ những nhóm nhỏ ấy, mô hình giáo dục đồng đẳng lan rộng khắp cả nước, giúp người yếu thế lấy lại tiếng nói và niềm tin" – vị Giáo sư nhớ lại.
Song song, công tác truyền thông chống kỳ thị được đẩy mạnh. Nhóm của bác sĩ Kính phối hợp với quân đội, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và các tổ chức tôn giáo để lan tỏa các thông điệp nhân văn về phòng, chống HIV/AIDS. Ở Cần Thơ, người ta còn dựng hẳn "con đường bao cao su" – cứ 5 mét lại có một cột tuyên truyền bằng thơ vần dí dỏm, dễ hiểu để đạt hiệu quả tuyên truyền cao.
Sau này, khi nhóm "người có H" hình thành, chị Phạm Thị Huệ (Hải Phòng) trở thành người tiên phong dám công khai tình trạng bệnh, đi khắp nơi tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS và được quốc tế vinh danh là "Anh hùng châu Á"."Chị Huệ là khởi thủy cho nhóm "người có H" hoạt động rất hiệu quả" – GS. Kính nói, ánh mắt ánh lên niềm tự hào.
Nhớ lại những ngày đầu không ai dám ngồi ăn cùng người nhiễm HIV, đến hôm nay, hàng chục nghìn người đã sống khỏe mạnh, tự tin hòa nhập cộng đồng. Mô hình giáo dục đồng đẳng không chỉ cứu người, mà còn cứu lòng tin - rằng mọi con người, dù từng lầm lỡ, đều xứng đáng được yêu thương.
Việt Nam được cộng đồng quốc tế công nhận là một trong những quốc gia thành công nhất trong việc kiểm soát đại dịch HIV/AIDS, và hiện là 1 trong 4 quốc gia có chất lượng điều trị HIV/AIDS tốt nhất thế giới, cùng với Anh, Đức và Thụy Sĩ. Thành công ấy không phải phép màu, mà là kết tinh của tầm nhìn chiến lược, ý chí bền bỉ của đội ngũ y bác sĩ và hợp tác quốc tế hiệu quả.
Theo GS. Kính, yếu tố trước hết là tầm nhìn của các bậc tiền bối trong lĩnh vực dịch tễ và bệnh truyền nhiễm. GS. Trịnh Ngọc Phan từng sớm dự báo "căn bệnh rất có thể đã âm ỉ ở Việt Nam nhưng chúng ta chưa biết". Còn GS. Phạm Song – tư lệnh ngành đã hoạch định chiến lược toàn hệ thống y tế, đưa các bệnh dịch lớn như sốt rét, sốt xuất huyết, dại, bại liệt, HIV/AIDS cùng chương trình tiêm chủng mở rộng vào hệ thống Chương trình mục tiêu quốc gia, được quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương. Chính quyết sách đó đã tạo nên một hệ thống điều hành xuyên suốt, bảo đảm mọi nguồn lực y tế đều hướng về cùng một mục tiêu: kiểm soát dịch bệnh, cứu người, và bảo vệ cộng đồng. Từ con số 0, Việt Nam từng bước xây dựng một chương trình phòng, chống HIV/AIDS bài bản và hiệu quả.
[VIDEO] Điều gì làm nên thành công chống dịch HIV/AIDS ở Việt Nam?
Trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, với chủ trương "quân cốt mạnh chứ không cốt nhiều", ngành y tế đã tập hợp một đội ngũ nhỏ nhưng tinh nhuệ, được đào tạo bài bản và làm việc với tinh thần kỷ luật, khoa học. Chính họ là những người đặt nền móng cho hệ thống giám sát dịch, xây dựng hướng dẫn chuyên môn, và từng bước hình thành mạng lưới phòng, chống HIV/AIDS trên toàn quốc.
Điểm đặc biệt của Việt Nam là xây dựng được hệ thống phòng, chống HIV/AIDS từ trung ương tới tận thôn bản – điều không phải quốc gia nào cũng làm được. Nhờ mạng lưới y tế cơ sở, công tác tuyên truyền, vận động, giám sát cộng đồng được triển khai tới từng thôn bản, từng hộ gia đình theo phương châm "đi từng ngõ, gõ từng nhà". Người dân được hướng dẫn thực hành hành vi an toàn, phụ nữ mang thai được khuyến khích xét nghiệm và điều trị dự phòng lây truyền mẹ - con. Nền tảng này không chỉ giúp Việt Nam kiểm soát thành công HIV/AIDS, mà sau này còn phát huy hiệu quả vượt trội trong phòng, chống đại dịch COVID-19.
Trên hành trình đó, Việt Nam đón nhận sự hỗ trợ quý báu từ các đối tác quốc tế như PEPFAR, Quỹ Toàn cầu, Quỹ Bill Clinton. Những "đòn bẩy chiến lược" này cung cấp thuốc men, sinh phẩm xét nghiệm và thiết bị hiện đại. Đồng thời đưa Việt Nam hòa vào mạng lưới chia sẻ tri thức toàn cầu, được đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và tiếp cận những tiến bộ y học mới nhất, giúp nhanh chóng đạt được các mục tiêu quốc gia trong kiểm soát dịch.
"Chúng ta được quốc tế hỗ trợ nhiều nhưng không vì thế mà ỷ lại. Việt Nam chủ động tổ chức hệ thống điều trị gắn với mạng lưới y tế sẵn có, giúp người bệnh HIV yên tâm và duy trì điều trị lâu dài", chuyên gia bệnh truyền nhiễm chia sẻ.
Trong giai đoạn ấy, hệ thống dự phòng và điều trị được kết nối chặt chẽ, các hướng dẫn chuyên môn được ban hành đồng bộ và triển khai sâu rộng đến tận cơ sở. Nhờ vậy, người nhiễm HIV không bị bỏ rơi, mà được tiếp cận chăm sóc toàn diện, từ xét nghiệm, tư vấn, điều trị đến hỗ trợ tâm lý. Thành quả đó là kết tinh của chỉ đạo đúng đắn, nhận thức thống nhất từ lãnh đạo các cấp, sự phối hợp quốc tế hiệu quả, và trên hết là tấm lòng tận tụy của đội ngũ y bác sĩ, những người bền bỉ vượt qua khó khăn để giành lại sự sống cho người bệnh.
Một điểm sáng khác là mô hình "Trung tâm điều trị AIDS tại cộng đồng", ban đầu được hỗ trợ bởi Quỹ Toàn cầu đã nhanh chóng chứng minh hiệu quả vượt trội. Các điểm đầu tiên như Cao Lộc (Lạng Sơn), Giao Thủy (Nam Định cũ) và Từ Liêm (Hà Nội) đã chứng minh hiệu quả vượt trội, khi ứng dụng công nghệ để theo dõi người bệnh, nhắc lịch nhận thuốc, giám sát tuân thủ điều trị. Sau đó, mô hình được tổng kết, chia sẻ kinh nghiệm quốc tế, trở thành bước ngoặt quan trọng trong quản lý và điều trị HIV/AIDS tại Việt Nam.
Từ những bước đi giản dị ban đầu, ngành y tế Việt Nam không ngừng tiến bộ: từ theo dõi lâm sàng chuyển sang xét nghiệm CD4, rồi định lượng tải lượng virus bằng máy Cobas – một bước tiến khoa học đáng kể trong điều kiện còn hạn chế. Cùng với đó là hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết mô hình và chia sẻ kinh nghiệm, vừa nâng cao chuyên môn, vừa củng cố nguồn lực hợp tác quốc tế. Hàng năm, Cục Phòng, chống HIV/AIDS (nay là Cục Phòng bệnh) đều phối hợp với các địa phương tổ chức tổng kết, xây dựng kế hoạch năm sau, đảm bảo vừa duy trì chuyên môn, vừa ổn định nguồn kinh phí quốc tế.
Những năm đầu, thuốc ARV được cấp hoàn toàn miễn phí. Ngày nay, dù chuyển sang cơ chế bảo hiểm y tế, Nhà nước vẫn hỗ trợ một phần chi phí, thể hiện cam kết không để người bệnh bị bỏ lại phía sau. Việt Nam được các tổ chức quốc tế ghi nhận và mời chia sẻ kinh nghiệm tại nhiều diễn đàn toàn cầu, đặc biệt về chủng HIV CRF01_AE đặc trưng khu vực.
"Thành công lớn nhất, có lẽ là chúng ta đã giảm rõ rệt kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV. Người bệnh tự tin hơn, sẵn sàng điều trị và hòa nhập cộng đồng – đó là minh chứng sống động cho sự tận tâm, kiên trì và chiến lược đúng đắn của cả dân tộc", GS. Kính nhận định.
35 năm gắn bó với công tác phòng, chống HIV/AIDS và đạt nhiều thành tựu đáng kể nhưng GS. Kính vẫn mang trong lòng nỗi trăn trở khôn nguôi khi "nhiều người chưa thật sự quan tâm đến căn bệnh này". Dù y học đã có đủ thuốc điều trị và dự phòng, song không ít bệnh nhân chỉ tìm đến bệnh viện khi đã ở giai đoạn cuối. "Có những người CD4 chỉ còn 7-8 tế bào (bình thường là 1.200 - 1.500 tế bào). Khi ấy, dù thuốc có tốt đến đâu cũng chỉ kéo dài được một thời gian ngắn, rất khó cứu. Trong khi nếu được phát hiện sớm, họ hoàn toàn có thể sống khỏe mạnh" - giọng ông chùng xuống.
GS. Kính nhắc lại khẩu hiệu từng vang lên suốt những năm đầu chống dịch: "Đừng chết vì thiếu hiểu biết". Ngày nay, y học đã tiến rất xa: nhóm MSM chỉ cần tiêm một mũi thuốc dự phòng có tác dụng tới 6 tháng, thay vì phải uống hàng ngày như trước. Cùng với đó, trí tuệ nhân tạo (AI) đang được ứng dụng để hỗ trợ giám sát, nhắc nhở người bệnh uống thuốc đúng giờ, nhận thuốc định kỳ, góp phần nâng cao hiệu quả điều trị một cách rõ rệt.
Trải lòng về gần nửa thế kỷ gắn bó với ngành truyền nhiễm, GS. Kính tâm sự: "Khi có dịch thì ai cũng tìm đến bác sĩ truyền nhiễm, hết dịch thì họ gần như bị quên mất". Lực lượng truyền nhiễm vốn mỏng, vất vả, sẵn sàng đối mặt hiểm nguy, nhưng chưa được đãi ngộ tương xứng… Đó là điều ông luôn đau đáu, mong xã hội quan tâm hơn đến đội ngũ thầy thuốc thầm lặng này, đặc biệt là những người làm công tác phòng chống HIV/AIDS.
Dẫu vậy, ông bộc bạch:"Truyền nhiễm là cái nghiệp phải theo đến cùng. Người bác sĩ một khi đã khoác lên mình chiếc áo blouse trắng thì dường như đã mang một món nợ ân tình với người bệnh suốt đời". Ông vẫn thường nhắn nhủ học trò: "Làm ngành nào cũng tốt, nhưng làm truyền nhiễm có niềm vui lớn nhất là cứu được nhiều người trong đại họa do dịch bệnh gây nên".
Niềm hạnh phúc ấy đôi khi chỉ giản dị là thấy bệnh nhân mình từng điều trị khỏe mạnh, lập gia đình, sinh con và sống một cuộc đời bình thường. Ông nhớ mãi có lần được bệnh nhân HIV mời dự đám cưới - những niềm vui nhỏ bé như thế chính là lẽ sống, là động lực để ông và đồng nghiệp tiếp tục bước đi trên hành trình thầm lặng nhưng ấm áp tình người.
Nhìn về tương lai, GS.TS Nguyễn Văn Kính tin rằng mục tiêu chấm dứt đại dịch HIV/AIDS vào năm 2030 của Việt Nam là hoàn toàn khả thi dù phía trước vẫn còn nhiều thách thức. Thách thức hiện hữu đầu tiên là nguồn lực. Khi các chương trình viện trợ quốc tế giảm dần, Việt Nam phải từng bước tự chủ về kinh phí, thuốc men và sinh phẩm xét nghiệm. Trong khi đó, ngân sách nhà nước còn hạn chế, bảo hiểm y tế mới chỉ bao phủ phần điều trị, chưa bao quát hết các dịch vụ dự phòng, tư vấn và hỗ trợ tâm lý.
Tiếp đó là sự thay đổi mô hình dịch tễ. Dịch HIV hiện nay đã dịch chuyển mạnh từ nhóm người nghiện tiêm chích ma túy sang nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) và thanh niên trẻ tuổi – những nhóm khó tiếp cận vì tâm lý e ngại, giấu kín. Ông cảnh báo: "Nếu không có biện pháp tiếp cận phù hợp, nguy cơ lây nhiễm ngược trở lại cộng đồng là rất lớn".
Thách thức thứ ba phải kể đến việc duy trì tuân thủ điều trị. Khi người bệnh được điều trị ARV sớm và đạt hiệu quả, tải lượng virus xuống mức không phát hiện, nhiều người có xu hướng chủ quan, bỏ thuốc, dẫn đến nguy cơ kháng thuốc. "Điều này đòi hỏi hệ thống y tế phải giám sát chặt chẽ, đồng thời phát triển các mô hình hỗ trợ đồng đẳng để người bệnh có thể giúp nhau duy trì điều trị", GS. Kính chia sẻ.
Rào cản lớn nhất chính là kỳ thị xã hội. Dù đã giảm đáng kể song ở không ít địa phương, người nhiễm HIV vẫn gặp khó khăn trong việc làm, bảo hiểm và chăm sóc y tế. Ông thẳng thắn: "Chúng ta không thể kiểm soát dịch nếu người bệnh vẫn còn sợ hãi và giấu mình". Vì vậy, công tác truyền thông cần tiếp tục đổi mới, nhấn mạnh tính nhân văn và tinh thần cộng đồng trong phòng, chống HIV/AIDS.
Chuyên gia đầu ngành truyền nhiễm chia sẻ tại Hội nghị quốc gia Chăm sóc và Điều trị HIV/AIDS lần thứ 2.
GS.TS Nguyễn Văn Kính được phong làm Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Oxford.
Dẫu còn nhiều thách thức, Việt Nam vẫn sở hữu những lợi thế quan trọng. Hệ thống y tế cơ sở vững mạnh, đội ngũ nhân lực dày dạn kinh nghiệm, dữ liệu dịch tễ được cập nhật thường xuyên cùng khả năng tiếp cận nhanh với các tiến bộ khoa học như xét nghiệm nhanh, thuốc điều trị mới, dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP) và sau phơi nhiễm (PEP), trí tuệ nhân tạo… Đây chính là nền tảng vững chắc cho chặng đường phía trước.
"Nếu tận dụng tốt những lợi thế ấy, kết hợp truyền thông và chính sách xã hội, chúng ta hoàn toàn có thể đạt mục tiêu 95-95-95 vào năm 2030" – nguyên Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương nhấn mạnh.
GS.TS Nguyễn Văn Kính cho rằng, phòng, chống HIV/AIDS không chỉ là nhiệm vụ của ngành y tế, mà còn là sứ mệnh nhân văn cao cả giúp con người được sống, được yêu thương và được tôn trọng.
Ba mươi lăm năm qua, từ những ngày đầu gian khó đến khi Việt Nam kiểm soát được đại dịch, hành trình ấy đã vượt ra ngoài giới hạn của một cuộc chiến y học để trở thành bản hùng ca của trí tuệ và lòng nhân ái Việt Nam - nơi ý chí, tinh thần đoàn kết và niềm tin vào con người cùng hòa quyện, thắp sáng khát vọng chấm dứt đại dịch AIDS.


















