Người nghệ nhân đau đáu giữ nghề tranh làng Sình

25-10-2013 13:27 | Văn hóa – Giải trí

Không đành lòng để những bản khắc tranh làng Sình xứ Huế bị tận diệt, có một người đã hò cả gia đình thức trắng nhiều đêm ròng đào hầm giấu tranh. Để rồi khi mọi chuyện qua đi, ông lại lật giở lại rồi từng bước gây dựng, khôi phục nghề tranh đã gần như bị xóa sổ. Đó là nghệ nhân Kỳ Hữu Phước - người cuối cùng còn nắm giữ những bí kíp làm tranh làng Sình.

Không đành lòng để những bản khắc tranh làng Sình xứ Huế bị tận diệt, có một người đã hò cả gia đình thức trắng nhiều đêm ròng đào hầm giấu tranh. Để rồi khi mọi chuyện qua đi, ông lại lật giở lại rồi từng bước gây dựng, khôi phục nghề tranh đã gần như bị xóa sổ. Đó là nghệ nhân Kỳ Hữu Phước - người cuối cùng còn nắm giữ những bí kíp làm tranh làng Sình.

Tinh hoa nghề tranh

Không quá khó khăn với chúng tôi khi tìm về xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, hỏi thăm nhà nghệ nhân Kỳ Hữu Phước. Từ đầu làng đã được anh thợ may trẻ vui vẻ chỉ đường cặn kẽ. Ngôi nhà tranh vách đất mang đậm vẻ đơn sơ, cũ kĩ, trầm mặc của xứ Huế. Nhưng gây ấn tượng đặc biệt vẫn là gian mái lá được cất ngay trong sân, nơi trưng bày những đồ nghề làm tranh. Đôi kính lão xệ xuống sống mũi, nghệ nhân Kỳ Hữu Phước vẫn chăm chút tô màu cho những bức tranh mà không hề mảy may để ý có người đến. Chỉ đến khi chúng tôi chào và tỏ ý muốn biết về nghề tranh làng Sình, ông mới dừng lại. Ánh mắt đầy vẻ vui mừng, ông cho biết: "Tranh làng Sình đặc trưng là loại tranh thờ cúng, gồm 3 loại là tranh nhân vật, tranh đồ vật và tranh súc vật", trong đó, tranh nhân vật gồm 2 bộ thế mạng và bổn mạng, nhưng chủ yếu là tranh tượng bà (tượng đế, tượng chùa, tượng ngang) thường dùng dán trên bàn thờ quanh năm...

Do cùng khởi phát từ một gốc nên tranh làng Sình khá giống với tranh Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh) về các công đoạn làm tranh, chỉ khác ở hình tranh và mục đích sử dụng. Theo nghệ nhân Kỳ Hữu Phước cho biết: "Từ thời ông tổ của nghề tranh Đông Hồ, cách làm tranh đã được mang vào Huế, nhưng để phù hợp với nhu cầu tín ngưỡng trong các lễ cầu an, giải hạn ở đây nên các nghệ nhân đã chế ra các bản khắc hình vẽ khác. Thế nên, tranh làng Sình mới nổi danh là dòng tranh thờ cúng". Tranh làng Sình hoàn toàn làm thủ công. Để có một bức tranh phải trải qua đủ 7 công đoạn, từ xén giấy, quét điệp, in tranh trên mộc bản, phơi tranh, pha màu, tô màu, cuối cùng là điểm nhãn. Trước kia, tranh làng Sình hoàn toàn sử dụng giấy dó nhưng nay, để tiện và đỡ tốn kém, người ta đã chuyển sang sử dụng giấy công nghiệp và tô bằng phẩm màu công nghiệp. Chỉ riêng ông Phước vẫn trung thành với vật liệu giấy dó và màu tự nhiên. Ông bảo: "Đó là nét đẹp, cũng là tinh hoa của nghề tranh nên phải giữ lấy".

Người nghệ nhân đau đáu giữ nghề tranh làng Sình  1
 Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước.

Nói là vậy nhưng để giữ được nét nguyên thủy của nghề không đơn giản. Thời các cụ xưa làm tranh cũng đã học được cách chế tạo giấy dó, nhưng biến thiên của thời cuộc đã khiến người dân làng Sình quên hẳn cách làm giấy dó. Đến nay, muốn làm tranh trên giấy dó, ông Phước phải đặt mua từ làng Đông Hồ.

Giấy dó mua về sẽ được quét điệp cho dai, giữ màu. Vỏ điệp ông nhập từ phá Tam Giang rồi tỉ mẩn ngồi giã, nghiền thật nhỏ, trộn với lớp bột gạo thành một lớp mịn quét đều lên giấy. Tranh làng Sình có đủ các màu xanh, đỏ, tím, vàng, cam, đen..., đều được làm từ cây cỏ. Nhưng để cho ra các màu khác nhau lại phải có bí quyết chế riêng, đòi hỏi sự am hiểu và biết nghề. Màu đỏ sẽ được làm từ rễ cây vang lấy từ rừng sâu, mang về sắc trên nồi đất nung lửa đỏ 4 - 5 ngày mới ra. Màu xanh lại chế từ hỗn hợp hoa dành dành hái dịp tháng 3, tháng 4 hàng năm và lá mối. Đến mùa nắng lại đi hái lá đung về, trộn cùng hoa hòe cô đặc lên cho ra màu vàng. Trước kia, cả làng có trăm nhà thì cả trăm đều có cây hòe nhưng nay chỉ còn lại một cây cổ thụ duy nhất. Thế nên, ông Phước luôn rất tiết kiệm và tận dụng tối đa hoa hòe kiếm được.

Cầu kỳ và tốn không ít công sức vậy nhưng mỗi bức tranh làm ra ông chỉ bán giá dao động từ 15 - 25 ngàn. Ông chia sẻ: "Gia đình tôi 7 người đều chỉ có một nghề là làm tranh, dù chẳng giàu có gì nhưng đó là niềm vui, niềm tự hào bởi dù sao, chúng tôi vẫn giữ được cái nghề cổ truyền của cha ông".

Nỗ lực giữ nghề

Kể về bước thăng trầm của một làng nghề, nghệ nhân Kỳ Hữu Phước không khỏi ngậm ngùi: "Tôi là đời thứ 9 làm nghề vẽ tranh của làng Sình. Làng hoạt động ổn định nhất là thời điểm trước năm 1945, lúc ấy, nhà nhà, người người đều làm nghề. Từ những năm 1970 - 1975, nghề làm tranh bắt đầu bị mai một". Thời điểm ấy, đất nước khó khăn, học sinh đi học còn chẳng có giấy để viết nên vẽ tranh cũng bị cho là phí phạm. Có người còn cho sử dụng tranh cũng là hoạt động mê tín dị đoan. Cứ thế, chẳng còn mấy ai dùng tranh làng Sình nữa. Thời điểm cả làng hò nhau đem đốt bản khắc gỗ, không chịu để mất nghề, ông Phước đã bọc nilon tất cả những bản khắc quý rồi chôn dưới đất, chỉ để lại những bản khắc bỏ đi đem đốt. Chờ đến khi mọi chuyện lắng lại, ông mới đào những bản khắc lên. Nhưng lúc này, công khai vẽ tranh cũng không được, ông lại đào hầm trong nhà rồi ngày ngày ngồi vẽ. Tranh vẽ ra, ông bó gọn trong người, mang đến từng nhà để bán. "Bán thì được bao nhiêu đâu, nhưng tôi không nỡ để đến đời tôi nghề nghiệp của tổ tiên lụi tàn", ông Phước trầm ngâm.

Năm 1996, đất nước mở cửa, chủ trương khôi phục lại những làng nghề truyền thống, trong đó có tranh làng Sình. Nhưng nghề làm tranh làng Sình chỉ còn duy nhất ông Phước biết nghề. Quyết tâm khôi phục bằng được làng tranh, ông đến từng nhà vận động họ làm. Không có khuôn gỗ, ông cặm cụi ngồi khắc từng bản mộc mang tới từng nhà. Nhưng dân làng ông vẫn còn e ngại, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được thì sao? Lại thêm một lần nữa ông động viên, khuyến khích từng người. Sản phẩm họ làm ra, ông mang đi khắp các chợ thành phố, chợ vùng ven để chào hàng. Mưa dầm thấm lâu, dân làng dần tin tưởng và làm theo ông. Hiện nay, làng Sình đã có khoảng 40 hộ gia đình theo nghề vẽ tranh, chủ yếu họ làm lúc nông nhàn.

Nhưng nhu cầu của xã hội ngày càng thay đổi. Nghề tranh nếu cứ bám lấy những đề tài cũ thì khó mà trụ lâu dài, ngoài dòng tranh thờ, hiện giờ, mọi người cũng rất quan tâm đến tranh trang trí, treo tường. Ngẫm vậy nên ông không khỏi đau đáu tìm cách phát triển nghề tranh. Nhớ đến ngày hội làng với rất nhiều trò chơi dân gian đặc sắc, ông ấp ủ ý tưởng sẽ đưa những hình ảnh ấy lên tranh. Vậy là lại chăm chú quan sát, chụp ảnh từng trò chơi rồi cặm cụi ngồi vẽ lại hình ảnh, sau đó, ông bắt đầu phác thảo trên bản khắc gỗ. Những bức tranh trang trí thuộc đề tài dân gian và tranh bát âm ra đời đã làm phong phú thêm cho tranh làng Sình.

Tuy vậy, ông Phước vẫn không khỏi băn khoăn vì "làng tranh đã được khôi phục nhưng vẫn chỉ có tôi làm được các bản khắc gỗ. Tôi đã lớn tuổi rồi, không có ai chú tâm theo nghề thì e rằng sớm muộn nghề sẽ mất". 2 năm trở lại đây, ông đã cất công tìm học trò để truyền dạy nghề khắc bản mộc. Cũng may trời thương, ông đã tìm được 2 học trò tầm tuổi 18 - 19 có được tố chất để truyền dạy. Các cháu đều đã bước đầu nắm bắt được những kĩ thuật làm nghề...

Ngọc Trịnh


Ý kiến của bạn