Các yếu tố nguy cơ của thuyên tắc động mạch phổi
Thuyên tắc phổi là tình trạng cục máu đông ở vị trí nào đó di chuyển lên động mạch phổi gây tắc nghẽn. làm tắc mạch máu ở trong phổi.
Đây là tình trạng nghiêm trọng đe dọa tính mạng, do cục máu đông từ nơi khác đến gây tắc nghẽn nhánh động mạch phổi, điển hình là từ các tĩnh mạch ở chi dưới hoặc vùng chậu. Hậu quả phụ thuộc vào kích cỡ và số lượng huyết khối. Biểu hiện lâm sàng đa dạng từ không có triệu chứng, đến biểu hiện nặng tụt huyết áp, ngất, hoặc ngưng tim.
Các yếu tố nguy cơ của thuyên tắc động mạch phổi bao gồm tiền sử bản thân hoặc gia đình có bệnh lý hình thành cục máu đông, đang mắc ung thư, sử dụng các thuốc tránh thai có chứa estrogen, phụ nữ mang thai, hoặc sau sinh đẻ (có thể tới 3 tháng sau sinh).
Các yếu tố khác làm tăng nguy cơ thuyên tắc phổi bao gồm: phẫu thuật gần đâu, chấn thương, gẫy xương hoặc bất động (ví dụ như di chuyển bằng máy bay hoặc xe hơi dài thời gian).
Biểu hiện thuyên tắc động mạch phổi như thế nào?
Biểu hiện lâm sàng của thuyên tắc động mạch phổi đa dạng và không đặc hiệu, dễ bỏ sót. Các biểu hiện thường gặp:
- Người bệnh có biểu hiện đột ngột khó thở.
- Xuất hiện tình trạng đau ngực
- Triệu chứng ít gặp hơn là có tình trạng ho máu, thay đổi trạng thái tinh thần (người già). Trường hợp nặng là biểu hiện tụt huyết áp, nhịp tim nhanh, choáng váng / ngất, thậm chí ngưng tim.
Để chẩn đoán thuyên tắc phổi là xác định khả năng có thuyên tắc phổi hay không sử dụng các thang điểm chuẩn hóa hoặc các ý kiến của các bác sĩ lâm sàng. Bệnh nhân có nguy cơ thuyên tắc phổi thấp hoặc trung bình được thực hiện xét nghiệm D-Dimer, đây là sản phẩm chuyển hóa của cục máu đông.
Nếu D-Dimer thấp, không cần làm thêm xét nghiệm khác. Xét nghiệm hình ảnh được thực hiện ở tất cả các bệnh nhân có nguy cơ thuyên tắc phổi cao và những người có nguy cơ thấp hoặc trung bình mà có D-Dimer tăng cao.
Chụp cắt lớp vi tính động mạch phổi có sử dụng chất cản quang đường tĩnh mạch để xác định cục máu động ở động mạch phổi sẽ được các bác sĩ chỉ định.
Điều trị như thế nào?
Điều trị thuyên tắc động mạch phổi cần sử dụng các thuốc chống đông máu. Cần sử dụng các thuốc này ngay khi có chẩn đoán thuyên tắc động mạch phổi và thường dùng kéo dài 3-6 tháng.
Bệnh nhân mà có kèm theo các yếu tố nguy cơ thuyên tắc phổi dai dẳng (chẳng hạn như có các rối loạn đông máu di truyền) có thể điều trị kéo dài, thậm chí là suốt đời.
Các thuốc ưa thích cho phần lớn bệnh nhân thuyên tắc phổi là các thuốc chống đông đường uống (DOAC) như: apixaban, edoxaban, dabigatran.
Các thuốc đối kháng vitamin K (như warfarin) được dùng cho các bệnh nhân có các bệnh lý làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông (như hội chứng kháng phospholipid). Các bệnh nhân là phụ nữ mang thai nên được điều trị bằng heparin trọng lượng phân tử thấp vì các thuốc này không ảnh hưởng đến thai nhi.
Các bệnh nhân có nguy cơ cao tử vong do thuyên tắc phổi (các bệnh nhân có sốc) và không có nguy cơ cao chảy máu thì được điều trị bằng các thuốc ly giải cục huyết khối (thuốc tiêu sợi huyết). Các lựa chọn điều trị khác bao gồm: lấy cục máu đông qua ống thông hoặc phẫu thuật.
Tóm lại: Thuyên tắc động mạch phổi phổi là tình trạng cần được nhập viện ngay để điều trị nhằm ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.
Hầu hết những người bị thuyên tắc động mạch phổi phổi sau khi điều trị được cứu sống có thể tái phát. Theo nghiên cứu, khoảng 5% bệnh nhân sau đó phát triển một dạng tăng huyết áp phổi gọi là tăng áp phổi do huyết khối tắc mạch mạn tính.
Bệnh nhân cần học cách sống chung với nguy cơ tái phát thuyên tắc phổi. Quan trọng là cần tuân thủ điều trị, nhất là về việc sử dụng thuốc chống đông cũng như lưu ý khi sử dụng thuốc này. Bởi vì, ngay cả những bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông dài hạn cũng có thể bị tái phát huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi.
Ngoài ra, có thể phòng ngừa tái phát thuyên tắc phổi bằng cách: Đi tái khám định kỳ. Sử dụng tất nén để ngăn ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu. Di chuyển chân khi ngồi trong thời gian dài. Sau phẫu thuật hoặc nghỉ ngơi do chấn thương, gãy xương… nên tập đi lại càng sớm càng tốt. Tập thể dục thường xuyên và bỏ thuốc lá cũng là điều quan trọng giảm nguy cơ mắc và tái phát căn bệnh này.