Xã hội hiện đại bên cạnh những mặt tích cực của nó, đã góp phần làm “nở rộ” các ca rối loạn trầm cảm/loạn thần. Ở Hà Nội có một bác sĩ gắn bó cả đời với bệnh nhân tâm thần và đã cứu chữa được rất nhiều người mà bị coi là... dở điên dở khùng. Đó là BS. La Đức Cương - Giám đốc Bệnh viện Tâm thần Trung ương I (BVTTTW I).
“Cắm” sổ gạo để theo nghề
59 tuổi, BS. La Đức Cương có tới 33 năm gắn bó với những bệnh nhân tâm thần. Số ca ông chữa trị thành công lên đến hàng ngàn. Nay đang ở cương vị quản lý, song BS. Cương vẫn thường xuyên trực tiếp điều trị những ca vào loại “khó nhằn” của bệnh viện. Ông chia sẻ về cái duyên nợ gắn bó với nghề...
Tốt nghiệp Khoa Sản Đại học Y Hà Nội, BS. Cương từng công tác tại Bệnh viện K71, Viện Lao ở Thanh Hóa, Trung tâm Chỉnh hình Sơn Tây... Sau rốt ông về Bệnh viện Tâm thần Trung ương năm 1983. Thời điểm ấy, cũng như đa số những bệnh viện nói chung, cơ sở vật chất của BVTTTW I phải nói là rất nghèo nàn. Chỉ có một dãy nhà cấp 4, còn đa số là nhà tranh vách đất.
BS. La Đức Cương chia sẻ những kinh nghiệm trong khám chữa bệnh nhân tâm thần.
Nhận công tác ở đây, hằng ngày BS. Cương phải dậy từ tờ mờ rồi đạp xe gần 20km để đến cơ quan. Thời kỳ cả nước khốn khó, cái xe đạp cũng chẳng ra gì nên anh bác sĩ trẻ nhiều khi đến được bệnh viện đã gần... trưa vì xe hỏng. Rồi đến chiều lại tất tả đạp về nhà để chăm vợ, trông con. Cậu con trai của ông từ bé đã bị viêm phổi nên thường xuyên là bệnh nhân của bệnh viện nhi. Có thời điểm BS.Cương đã phải mang cả sổ gạo của gia đình đem... cắm cho nhà thuốc để lấy thuốc cho con trai uống.
Ở nhà đã vậy, đến bệnh viện cũng có nhiều nỗi suy tư. Vì tâm thần là một trong những lĩnh vực gần như không có phác đồ điều trị, các bác sĩ đều phải tự mày mò để tìm ra một phương pháp khả thi nhất cho mỗi bệnh nhân. Khoa học kỹ thuật thời điểm ấy cũng còn rất hạn chế. Rồi chuyện bệnh nhân hành hung bác sĩ lại thường xuyên xảy ra. Một số bác sĩ, y tá của BVTTTW I thậm chí phải đi điều trị thương tích ở các bệnh viện đa khoa sau mỗi cơn điên của bệnh nhân.
Hoàn cảnh vất vả thiếu thốn mọi bề, nhiều lần vợ BS. Cương “ra nghị quyết” buộc ông phải chuyển về bệnh viện gần nhà. Cũng có một số bệnh viện đồng ý, song BS. Cương lại nhất quyết không chịu.
Ông nhận thấy tâm thần là lĩnh vực khó, thậm chí rất khó trong y học. Nhưng càng khó thì lại càng kích thích những tìm tòi, sáng tạo để tìm ra được phương pháp điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. “Có những bệnh nhân có dấu hiệu lâm sàng giống nhau, song lại phải dùng thuốc và cách điều trị khác. Cũng có trường hợp biểu hiện lâm sàng khác nhau, nhưng lại có thể dùng chung một loại thuốc”- BS. Cương bày tỏ.
“Đặc biệt, niềm hạnh phúc lớn nhất của tôi là thấy bệnh tình của người bệnh thuyên giảm, rồi được xuất viện trở về với gia đình. Những lúc ấy bao nhiêu gian nan khó nhọc của cuộc sống thường ngày cũng theo đó mà tan biến”.
BS. Cương nhớ lại một trong những ca khó quên trong sự nghiệp y học của mình. Khoảng năm 1987, bệnh viện tiếp nhận bệnh nhân Bùi Danh Lợi (quê Lý Nhân, Hà Nam). Lợi vốn là du học sinh Việt Nam tại Hungary. Bệnh tâm thần bột phát, Lợi đã đâm chết một điều dưỡng và đâm trọng thương một bác sĩ nước bạn. Có lẽ vì có quá khứ “bất hảo” như thế nên khi bệnh nhân Lợi nhập viện, có một số bác sĩ y tá e dè không muốn nhận ca này.
Nghiên cứu kỹ cách thức chữa trị của các bác sĩ Hunggary, qua quá trình thăm khám, BS. Cương bất ngờ phát hiện nguyên nhân của những cơn điên bột phát có một phần là do thuốc. Vì thế, BS. Cương kê đơn thuốc với tiên lượng phù hợp hơn, đồng thời luôn dành thời gian gần gũi tâm sự với bệnh nhân. Sau vài tháng cả bệnh viện phải ngạc nhiên khi thấy sức khỏe tâm thần của Lợi đã ổn định và được xuất viện.
“Đường dây nóng” tư vấn tâm lý
Từ một bác sĩ chuyên khoa, rồi được tín nhiệm bầu giữ các vị trí trưởng khoa, phó giám đốc, rồi giám đốc bệnh viện, BS. Cương vẫn thường xuyên là người trực tiếp điều trị cho không ít bệnh nhân tâm thần loại “nặng”. Đặc biệt, từ năm 1999, BS. Cương cùng đồng nghiệp khởi động dự án “Bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng” nhằm phổ biến kiến thức cho toàn dân.
Ước tính, tại BVTTTW I mỗi năm có khoảng 25.000 lượt người đến khám bệnh, trong đó điều trị nội trú chiếm khoảng 10%. BS. Cương cùng 572 đồng nghiệp ngày đêm điều trị cho gần 600 bệnh nhân nội trú. Ngoài ra, BS. Cương tranh thủ thêm thời gian đào tạo thế hệ trẻ kế cận bằng việc tăng cường trực tiếp “cầm tay chỉ việc”: khai thác, phân tích tâm lý bệnh nhân, thực hành chẩn đoán điều trị.
Tiếp xúc với BS. Cương một thời gian, tôi phát hiện ông có một chiếc điện thoại “riêng”, chỉ dành cho việc tư vấn tâm lý cho bệnh nhân và người nhà. Hóa ra, hàng chục năm qua, BS. Cương là người trực tiếp cầm “đường dây nóng” để giải đáp những thắc mắc, tiếp nhận góp ý của bệnh nhân và gia đình mọi vấn đề liên quan đến điều trị.
“Tôi phải nhờ người quen tìm mua cho một chiếc điện thoại mà pin thật “trâu”, sóng thật khỏe để có thể tư vấn cho người bệnh mọi nơi mọi lúc. Nhiều đêm đang ngủ có bệnh nhân gọi đến, vợ tôi cằn nhằn sao không tắt máy mà ngủ? Tôi đành phân trần rằng họ là người bệnh đang rất cần mình, cực chẳng đã họ mới phải gọi mình vào thời gian này. Rồi thì vợ con cũng thông cảm” - BS. Cương chia sẻ.
Trong thời gian làm việc tại bệnh viện, tôi gặp cô Nguyễn Thị K. (ở Cầu Giấy, Hà Nội) là phụ huynh của em Trần Văn B. (cựu sinh viên Trường đại học Bách khoa Hà Nội). Học đến năm thứ hai, vì nhiều lý do khác nhau mà B. phát bệnh, tự dưng nghỉ học rồi suốt ngày ở nhà nói năng lảm nhảm. B. được đưa đến bệnh viện BS. Cương trực tiếp thăm khám và điều trị. Khoảng 2 tuần sau, bệnh tình của B. đã thuyên giảm. Tuy nhiên, thỉnh thoảng bà K. lại phải gọi điện cầu cứu.
Vậy là hầu như tuần nào BS. Cương cũng đến nhà B. để thăm khám, điều trị. Một điều ông không ngờ tới là chồng bà K. (vốn là cựu nhân viên Bộ Ngoại giao) lại kiên quyết cho rằng con mình... không bị bệnh và không phải chạy chữa gì cả. Thành ra BS. Cương phải tư vấn cho cả cậu con trai lẫn ông bố. Kiên trì điều trị gần 5 năm trời, bệnh tình cháu B. đã thuyên giảm và trở lại trạng thái bình thường.
“Hiện cháu đã tốt nghiệp đại học và tìm được công việc ổn định. Tôi cũng vừa thấy mẹ cháu khoe cháu đã lấy vợ và có con. Thực sự đây là niềm vui nhất đối với chúng tôi”. BS. Cương chia sẻ.
Lấy người bệnh làm trung tâm
Cũng theo BS. Cương, qua một thời gian dài điều trị cho bệnh nhân tâm thần ông đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm bổ ích. Đặc biệt, những kinh nghiệm này được tiếp tục củng cố khi ông tham gia những khóa đào tạo, tham quan ở nước ngoài. Một trong những kinh nghiệm quý là điều trị bệnh tâm thần không dùng thuốc.
Khoảng năm 2010, BS. Cương cùng một đoàn công tác của Bộ Y tế tham quan học tập tại một trung tâm điều trị tâm thần tại Bỉ. Những bệnh nhân này được điều trị bằng một phương pháp mới, đó là thông qua những cử chỉ lời nói để động viên, an ủi, lắng nghe... có chủ đích của bác sĩ để giúp giảm thiểu những cơn kích động, tạo cơ hội để hệ thần kinh được nghỉ ngơi, an dưỡng. Áp dụng phương pháp này tại BVTTTW I cũng thu được những kết quả rất tốt.
Đồng thời, một điều khiến BS. Cương rất ngạc nhiên là, khi đang dẫn quan khách đi tham quan trung tâm, vị giám đốc trung tâm thường xuyên “bỏ quên” khách để giải đáp những thắc mắc của bệnh nhân đang điều trị tại đây. Đó chính là việc cụ thể hóa quan điểm lấy người bệnh làm trung tâm. Bất cứ khi nào người bệnh có yêu cầu, thắc mắc thì bác sĩ đều phải giải đáp một cách tận tình, chu đáo.
BS. Cương chia sẻ, quan điểm đó cũng đang thực hiện một cách rốt ráo ở BVTTTW I. Chăm sóc toàn diện người bệnh tâm thần là công việc đặc thù, người bệnh nặng mới vào điều trị nội trú nên chăm sóc người bệnh rất khó nhọc. Ngoài chăm sóc và điều trị như các chuyên khoa khác, các cán bộ y tế còn phải luôn quan tâm đến các bệnh khác kèm theo, quan tâm đến tâm tư tình cảm người bệnh, chăm sóc từng sinh hoạt như: cơm ăn, nước uống, vệ sinh cá nhân, giấc ngủ cho người bệnh; đồng thời, các cán bộ y tế lại phải luôn cảnh giác người bệnh tấn công bất chợt.
“Tuy chỉ tiêu biên chế ít, thu nhập ngoài lương trước đây không có, hiện nay không đáng kể, môi trường làm việc luôn căng thẳng, nhưng cán bộ bác sĩ, y tá của bệnh viện luôn có quan điểm nhất quán là: Lấy người bệnh làm trung tâm của sự phục vụ, không phân biệt người bệnh có BHYT hay không” - BS. Cương khẳng định.
Ngoài ra, do nhiều người ngày càng phải đối mặt với áp lực về kinh tế, công việc, học hành căng thẳng hay biến cố trong đời sống cá nhân cũng gây ra những tác động không nhỏ tới tâm trí.
Đáng lo hơn, hiện nay số người được chẩn đoán và tự biết mình có vấn đề về sức khỏe tâm thần chỉ chiếm chưa tới 30%, còn lại không biết và không thừa nhận mình có vấn đề về sức khỏe tâm thần nên không được chăm sóc và điều trị kịp thời đúng bệnh”.
(BS. La Đức Cương, Giám đốc Bệnh viện Tâm thần Trung ương)
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cả nước hiện có đến 9 triệu người (chiếm khoảng 10% dân số) có các triệu chứng bệnh tâm thần thường gặp, trong số đó có 200.000 người bị bệnh tâm thần nặng. Với số lượng bệnh nhân khá lớn, nhu cầu điều trị tâm thần, tâm lý là rất cao. Tuy nhiên, cả nước hiện chỉ có 26 trung tâm chăm sóc điều trị cho khoảng 10.000 người bệnh tâm thần. Số người bệnh còn lại vẫn sống trong cộng đồng hoặc lang thang ngoài xã hội, có thể gây nguy hiểm bất cứ lúc nào.