(SKDS) - Tôi gọi nơi này như thế vì nơi đây vẫn còn đó những số phận mong manh như chiếc lá. Họ khi thì đơn độc, khi thì nổi loạn một cách rất… con người. Tất cả chỉ vì những số phận nghiệt ngã đã không cho họ nổi dù chỉ là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi.
“Rừng con gái”…
Những cái tên địa danh Sơn Lang, Đak Roong hay Hà Nừng... và nhiều địa danh khác nữa của huyện Kbang (Gia Lai) mới nghe qua đã thấy xa vời vợi, thăm thẳm. Ở những nơi xa xôi ấy của huyện Kbang còn biết bao nhiêu phận đời éo le, ngang trái như thế, bời bời ngổn ngang như thế. Nhưng họ vẫn từng gắn bó với rừng và đất Tây Nguyên...
Ở vùng đất Kbang này cách đây hơn 30 năm về trước, có những cô gái “thanh niên xung phong”, những cô gái đi kinh tế mới từ khắp các vùng miền đã đến đây trồng và giữ rừng, chính họ cũng đã gửi lại nơi đây những ngày đẹp nhất cuộc đời mình để hôm nay rừng núi này có được màu xanh bát ngát ấy. Và cũng không ít người trong số họ đã chọn nơi này làm quê hương thứ hai. Nhưng cứ như là sự sắp đặt cay nghiệt của số phận, cho đến bây giờ phần lớn họ đều lỡ dở cả cuộc đời...
![]() Nhiều chị vẫn bám trụ nơi đây. |
Sau gần 60km từ trung tâm huyện Kbang đi vào, ông Hà Văn Hoạt, Phó Chủ tịch xã Sơn Lang nhận làm người dẫn đường đưa chúng tôi đến với những người phụ nữ của mảnh rừng con gái ngày ấy. Con đường rợp bóng cây che mát rượi là lối vào nhà chị Dương Thị Thiện, ở thôn 10, xã Sơn Lang. Chị Thiện là một trong số những cô gái của Liên hiệp Lâm - Công nghiệp ngày ấy đã chọn Kbang làm nơi dừng chân đến tận bây giờ. Câu nói đầu tiên của chị khi gặp chúng tôi đã bắt đầu cho một quãng thời gian nhói lòng: “Lúc ấy dường như người ta quên hết mọi thứ, mong muốn được về lại quê hương lớn đến mức lấn át cả tình yêu. Tôi cũng đã bỏ lại một mối tình ở quê nhà Hưng Yên để ở lại mảnh đất này. Đến giờ vẫn một mình vậy thôi!”.
Sau khi số nam giới ít ỏi bỏ trốn về quê thì đại đội của chị còn lại... đúng 40 nữ, đa số quê gốc Hưng Yên, Thanh Hóa, Nghệ An. Và thế là những khoảnh rừng ngun ngút, xanh thăm thẳm chỉ còn lại toàn con gái. Vì thế, không lạ khi có trường hợp 5 cô của một đơn vị cùng kéo lên gặp Sư đoàn trưởng xin được chuyển vùng để... kiếm tấm chồng. Đến những năm 1984, 1985, nhiều cô lỡ thì không có được một chốn nương tựa đã tìm đường về lại quê nhà. Vì vậy, các chị phải làm hầu hết các công việc, kể cả việc nặng nhọc nhất để bám trụ lại nơi này.
Hồi ấy tuy cơm cũng không đủ ăn, phải độn mì lát, bo bo nhưng ai cũng vô tư, ai cũng tràn ngập sức sống và lý tưởng. Rừng thì cứ xanh thêm từng ngày, nhưng mái tóc của các chị lại cứ rơi rụng dần, bạc trắng hơn, và những ngày tháng đẹp đẽ vô tư của tuổi thanh xuân cứ trôi qua mải miết trong nghìn trùng xanh thẳm của rừng. Đã có lúc 40 cô phải cử đại diện đến yêu cầu Liên hiệp “cân đối” số lượng nam nữ trong đội, nhưng làm sao mà cân đối cho được vì không kiếm đâu ra... đàn ông. Thế nên tình yêu đôi lứa bỗng trở thành một thứ tình cảm xa xỉ, ngoài tầm tay với của các chị.
Những câu chuyện ở “rừng cười”
Cùng đơn vị với chị Thiện hồi ấy, có chị Trần Thị Nhị, quê ở Nghệ An. Trong câu chuyện về cuộc đời có nhiều nỗi buồn của mình, chị không dễ để mở lòng với một chàng trai trẻ xa lạ như tôi, nhưng cuối cùng chị cũng bộc bạch nhiều điều về một quãng đời rất khó quên với chị. Chị Nhị quê ở Nghệ An, vào đây năm 1982 sau khi lén đi đăng ký và viết đơn tình nguyện. Chỉ đến trước ngày lên đường, gia đình mới bàng hoàng vì quyết định táo bạo này của chị. Nhưng vào đến nơi, thấy bốn bề toàn là rừng, nhiều người cùng chuyến xe với chị đã òa khóc vì viễn cảnh họ được tưởng tượng ra trước đó đẹp đẽ hơn nhiều. Không ít người bỏ trốn, nhưng những ai đã vào đến Lâm trường Trạm Lập (xã Sơn Lang), một trong những lâm trường xa nhất của Liên hiệp, cách trung tâm huyện dằng dặc 60 cây số cũng đều xác định bám trụ.
Một điều có phần an ủi cho các chị nơi đây, là khi những đứa con họ “xin được” (tất cả đều mang họ mẹ) như Dương Hữu Đức (con trai chị Dương Thị Thiện), Trần Xuân Lập (con trai chị Trần Thị Liệu), hay Lê Thị Thúy Hằng (con gái chị Lê Thị Vân) và nhiều đứa con khác nữa đã khôn lớn, có người đã có công việc ổn định ngoài thành phố, có người đang học đại học. Tất cả đều ngoan ngoãn, và hầu như biết số phận không may mắn của cuộc đời nên ai cũng cố gắng để có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Con trai chị Đặng Thị Nguyệt nay đã có gia đình ở TP. Pleiku, muốn đón mẹ ra ở cùng, sợ mẹ ở trong rừng vất vả, nhỡ đâu có chuyện gì, nhưng chị Nguyệt ngậm ngùi: “Nó thương mẹ nên muốn mẹ ra ở cùng. Nhưng mình đã ở đây cả tuổi trẻ rồi, không muốn đi nữa. Ở đây còn có chị có em, có những người đã cùng mình lăn lộn với rừng bao năm qua. Đi sao đành!”. Những đứa con ra đời mang họ mẹ được các chị xem như một “bảo bối” của đời mình.
Ông Nông Văn Tưởng, Giám đốc Công ty Lâm nghiệp Ka Nak (huyện Kbang, Gia Lai) nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Khảo sát Thiết kế rừng của Sư đoàn 332 ngậm ngùi khi nhớ lại khoảng thời gian ấy:“Quả thật có sống trong thời điểm đó mới hiểu được tâm sự của những cô gái trong rừng. Nhưng họ đã cống hiến hết tuổi thanh xuân của mình cho mảnh đất này, cho cuộc sống này không hề do dự, không một lời than vãn để những mảnh rừng cháy đỏ vì bom đạn, vì chất độc xanh lên từng ngày. Họ là những con người quả cảm trong cả công việc và đời thường. Nếu không có họ, chắc gì những mảnh rừng kia được hồi sinh như thế!”...
Tôi về lại đồng bằng, ngang qua những mảnh rừng con gái một thời, những câu chuyện của các chị cứ văng vẳng trong tâm trí, cứ ám ảnh mãi không thôi. Những mảnh rừng con gái đã xanh ngăn ngắt, nhưng nơi ấy đã lấy đi của các chị hạnh phúc được làm vợ, làm mẹ, hạnh phúc của một gia đình nhỏ bé, giản đơn.
Bài và ảnh:Thanh Toàn