Rối loạn sinh tủy là căn bệnh nghiêm trọng, có thể gây ra những rủi ro về sức khỏe, những người mắc phải căn bệnh này vẫn có hy vọng nếu phát hiện sớm và có kế hoạch điều trị đúng hướng.
Thế nào là hội chứng rối loạn sinh tủy?
Rối loạn sinh tủy (rối loạn tăng sinh tủy) là nhóm các bệnh lý, do rối loạn đặc trưng bởi sự tăng sinh tế bào của một hay nhiều dòng tế bào trong máu ngoại vi, phân biệt với bệnh bạch cầu cấp tính.
Mặc dù rối loạn sinh tủy là căn bệnh nghiêm trọng và có thể gây ra những rủi ro về sức khỏe, nhưng những người mắc phải căn bệnh này vẫn có hy vọng được điều trị và thường vẫn có thể duy trì sự sống thêm nhiều năm sau khi chẩn đoán.
Hội chứng rối loạn sinh tủy có liên quan đến nhiều bất thường về nhiễm sắc thể. Hay gặp nhất là mất đoạn hoặc toàn bộ nhiễm sắc thể số 5 hoặc 7, ít gặp hơn là mất đoạn các nhiễm sắc thể số 9, 11, 12, 13, 17 hoặc 20.
Những đặc trưng của bệnh: Rối loạn quá trình biệt hóa và tăng sinh của các dòng tế bào máu gây nên tình trạng sinh máu không hiệu lực. Chính điều này đã làm giảm 1, 2 hay 3 dòng tế bào trong máu ngoại vi kết hợp với những rối loạn hình thái và chức năng của 3 dòng hồng cầu, bạch cầu, mẫu tiểu cầu trong tủy xương.
Ghép tủy trong bệnh rối loạn sinh tủy là vấn đề đang được nhiều người quan tâm.
Triệu chứng của bệnh rối loạn sinh tủy
Bệnh rối loạn sinh tủy thường không có biểu hiện rõ ràng khi đi khám trong giai đoạn đầu tiên.
Triệu chứng thường gặp nhất ở người bệnh là lá lách to lên, thường gây đau bụng và cảm giác no sau khi ăn. Thường gặp ở người trên 50 tuổi, nam nhiều hơn nữ.
Triệu chứng có thể phát hiện sớm nhất và thường gặp nhất của bệnh là thiếu máu. Thiếu máu thường từ từ, dai dẳng và không rõ nguyên nhân.
Hội chứng xuất huyết (dưới da, niêm mạc, nội tạng).
Hội chứng nhiễm khuẩn (hô hấp, tiêu hóa, sinh dục - tiết niệu...).
Có thể gặp gan to và/ hoặc lách to.
Thâm nhiễm ngoài da thường gặp ở bệnh nhân có tăng bạch cầu monocyte.
Các triệu chứng trên có thể xuất hiện đơn độc hoặc phối hợp nhau, các hội chứng nhiễm khuẩn, xuất huyết, gan lách to gặp với tỷ lệ thấp hơn hội chứng thiếu máu.
Nguyên nhân gây bệnh
Tất cả các loại rối loạn sinh tủy là do sự sản sinh quá mức cần thiết của một hay nhiều loại tế bào máu.
Điều này có thể xuất phát từ 2 nguyên nhân chính:
Yếu tố di truyền: Một số người mắc rối loạn sinh tủy đều có một nhiễm sắc thể bất thường rút ngắn được gọi là nhiễm sắc thể Philadelphia.
Yếu tố môi trường: Một số nghiên cứu cho rằng rối loạn sinh tủy có thể là hậu quả do tiếp xúc quá nhiều với bức xạ, hệ thống dây điện hoặc hóa chất.
Các dạng rối loạn sinh tủy
Đa hồng cầu nguyên phát: loại rối loạn này xảy ra khi tủy xương sản sinh quá nhiều tế bào máu, đặc biệt là các tế bào máu đỏ. Hơn 95% người bị đa hồng cầu nguyên phát mang đột biến JAK2V617F trong máu.
Tăng tiểu cầu thiết yếu: xảy ra khi cơ thể sản xuất quá nhiều tế bào tiểu cầu, làm máu bị đóng cục. Cục máu đông có thể làm nghẽn mạch máu dẫn đến cơn đau tim hoặc đột quỵ.
Chứng xơ cứng tủy: xảy ra khi tủy xương sản sinh quá nhiều collagen hoặc mô xơ trong tủy xương. Điều này làm giảm khả năng sản xuất các tế bào máu của tủy.
Bệnh bạch cầu mạn tính dòng tủy (CML): ung thư tủy xương sản sinh bạch cầu hạt bất thường, một loại tế bào máu trắng, trong tủy xương.
Ðiều trị bệnh ra sao?
Tùy trường hợp mà sử dụng các chế phẩm máu, kháng sinh. Có thể hóa trị và ghép tế bào gốc để điều trị một số thể bệnh. Bệnh diễn biến ngày càng nặng và có tỷ lệ cao chuyển thành bạch cầu cấp. Tùy theo thể bệnh và việc điều trị, bệnh kéo dài từ 2 đến 7 năm. Nguyên nhân dẫn đến tử vong thường là chuyển thành bạch cầu cấp, nhiễm khuẩn nặng hay xuất huyết, nhiễm sắt và các biến chứng khác gặp trong quá trình điều trị.
Ngoài hội chứng rối loạn sinh tủy nguyên phát, còn gặp một số trường hợp mắc bệnh thứ phát do điều trị các bệnh khác. Cũng có trường hợp bệnh nhiễm khuẩn kéo dài, xơ gan làm ảnh hưởng sinh máu ở tủy nên có thể có hình ảnh máu và tủy tương tự rối loạn sinh tủy. Những trường hợp này nếu điều trị bệnh chính ổn định thì tủy lại sinh máu bình thường.
Hiện nay chưa có phương pháp nào chữa khỏi bệnh rối loạn tủy xương, tuy nhiên, một số cách điều trị dưới đây có thể cải thiện triệu chứng và ngăn ngừa các biến chứng có thể xảy ra:
Với đa hồng cầu nguyên phát: giảm số lượng tế bào máu đỏ bằng cách chích để loại bỏ, thay thế máu. Điều trị bằng thuốc gọi là liệu pháp ức chế tủy, cũng rất phổ biến.
Với tăng tiểu cầu thiết yếu: dùng thuốc điều trị các triệu chứng.
Với chứng xơ cứng tủy: truyền máu và sử dụng thuốc.
Với bạch cầu mạn tính dòng tủy: liệu pháp hóa trị, sinh học, hóa trị liều cao với ghép tế bào gốc (từ người thân), hay tiến hành phẫu thuật.
Bệnh sẽ diễn biến ngày càng nặng và có nguy cơ cao chuyển thành bạch cầu cấp, nhiễm khuẩn nặng hay xuất huyết, nhiễm sắt và các biến chứng khác gặp trong quá trình điều trị.
Người bệnh cần có chế độ dinh dưỡng như thế nào?
Ăn thực phẩm chống ôxy hóa bao gồm cả các loại trái cây (như quả việt quất, anh đào, cà chua), rau quả (như bí và ớt chuông).
Tránh các loại thực phẩm tinh chế như bánh mì trắng, mì ống và đặc biệt là đường.
Ăn thịt ít màu đỏ và các loại thịt nạc, cá nước lạnh, đậu phụ (đậu nành, nếu không bị dị ứng), hoặc đậu giàu protein.
Sử dụng các loại dầu lành mạnh như dầu ôliu hoặc dầu thực vật.
Không dùng các chất kích thích như cà phê, rượu, thuốc lá.
Uống 6 - 8 ly nước lọc mỗi ngày.
Tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày.
(Theo Tatra, The Time, Dailymail)
Lan Anh